Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
Nghiên cứu biện pháp hỗ trợ đối với những cặp vợ chồng hiếm muộn
ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng) nhất trí với sự cần thiết xây dựng và ban hành dự án Luật Dân số; cho rằng, các chính sách dân số hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp với thực trạng dân số Việt Nam hiện nay. Quy mô dân số đang tăng chậm, mức sinh có xu hướng suy giảm tại nhiều địa phương, trong khi mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn ở mức đáng báo động và tình trạng già hóa dân số diễn ra nhanh hơn dự báo.
ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng) phát biểu. Ảnh: Quang Khánh
Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước đã thay đổi mạnh mẽ; nhận thức, lối sống và quan điểm về hôn nhân – gia đình của người dân, đặc biệt là giới trẻ, cũng có nhiều thay đổi. Tâm lý kết hôn muộn, sinh ít, thậm chí không muốn sinh con ngày càng phổ biến; trong khi một số định kiến giới tính vẫn tiếp tục tồn tại ở một số bộ phận. Những sự thay đổi này tạo ra thách thức mới đối với công tác dân số, đặt ra yêu cầu phải thay đổi, ban hành chính sách mới để nâng cao chất lượng dân số và thích ứng với già hóa dân số.
Điều 13 dự thảo Luật đưa ra nhiều biện pháp hiệu quả để duy trì mức sinh thay thế. Bên cạnh những biện pháp được đưa ra trong dự thảo, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga đề nghị nghiên cứu xem xét biện pháp hỗ trợ đối với những cặp vợ chồng hiếm muộn, gặp khó khăn trong việc sinh con.
Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
Đại biểu nêu thực tế, hiện nay, tình trạng hiếm muộn không hiếm gặp, việc có các hỗ trợ phù hợp sẽ góp phần thiết thực trong việc duy trì mức sinh thay thế, đồng thời nâng cao chất lượng dân số. Biện pháp này còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện sự chia sẻ và đồng hành của Nhà nước đối với các cặp vợ chồng trong việc thực hiện thiên chức làm cha, làm mẹ.
Khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật xác định nội hàm các yếu tố dân số cần lồng ghép trong các chính sách phát triển chỉ bao gồm 3 yếu tố là quy mô, cơ cấu và phân bố dân số. ĐBQH Trần Thị Hiền (Ninh Bình) cho rằng, nội dung này không có yếu tố già hóa dân số, trong khi đây là vấn đề rất cần thiết, thậm chí là cấp thiết đối với công tác dân số hiện nay.
Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
Theo khuyến nghị của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, một trong những biện pháp cần ưu tiên để thích ứng và tận dụng cơ hội từ già hóa dân số là phải bảo đảm vấn đề già hóa và nhu cầu của người cao tuổi được tính đến trong các chính sách phát triển cấp quốc gia.
Từ nguyên lý trên, hiện nay tại các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, nền “kinh tế tóc bạc” và các dịch vụ, hàng hóa dành cho người cao tuổi phát triển rất mạnh mẽ. Do vậy, đại biểu Trần Thị Hiền đề nghị bổ sung yếu tố “già hóa dân số” vào Khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật.
Tại thời điểm này, khi dân số cao tuổi tăng bình quân hơn 4%/năm, trong giai đoạn 2019 – 2021 mỗi năm tăng thêm 600 nghìn người cao tuổi, chỉ số già hóa tăng từ 35,5 vào năm 2009 lên 53,1 năm 2021, theo đại biểu, cần tính trước trong thiết lập chính sách ưu tiên để thúc đẩy phát triển các cơ sở dưỡng lão, cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, tăng tính sẵn có của dịch vụ dành cho người cao tuổi ngay tại cộng đồng, tạo nền tảng cho “nền kinh tế tóc bạc” tại Việt Nam theo đúng tinh thần Kết luận 149 của Bộ Chính trị “Củng cố, phát triển mạng lưới chăm sóc người cao tuổi; đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ dân số”.
ĐBQH Trần Thị Hiền (Ninh Bình) phát biểu. Ảnh: Quang Khánh
Tại điểm c, Khoản 1 Điều 17 dự thảo Luật quy định biện pháp “Tổ chức các hình thức, mô hình chăm sóc người cao tuổi tại nhà, cộng đồng”. Đại biểu Trần Thị Hiền cho rằng, quy định như vậy không rõ nội hàm của chính sách vì từ năm 2010, mặc dù Luật Người cao tuổi đã có quy định “Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chăm sóc người cao tuổi” nhưng trên thực tế, việc xã hội hóa, phát triển các cơ sở dưỡng lão, chăm sóc người cao tuổi rất khó khăn, số lượng rất ít; chủ yếu là dịch vụ chi phí cao dành cho người có khả năng chi trả vài chục triệu/tháng.
"Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên vẫn là khó khăn trong tiếp cận đất đai, mặt bằng và nhân lực chuyên môn". Do vậy, đại biểu Trần Thị Hiền đề nghị chỉnh lý, bổ sung, cụ thể hóa Điều 17 về hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi theo hướng: quy định cụ thể hơn về chính sách khuyến khích, ưu tiên về tiếp cận đất đai, ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư, phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi và các hình thức chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng.
Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
Đồng thời cũng cần có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong các lĩnh vực điều dưỡng, chăm sóc người cao tuổi khi hết thời hạn hợp đồng làm việc ở nước ngoài có thể thuận lợi phát huy kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm chuyên môn để tiếp tục phát triển nghề nghiệp tại Việt Nam.
Nghiên cứu bổ sung cơ chế đánh giá tác động dân số bắt buộc
Cũng quan tâm tới nội dung lồng ghép yếu tố dân số trong các chính sách phát triển, ĐBQH Nguyễn Tâm Hùng (TP. Hồ Chí Minh) đề nghị bổ sung cơ chế đánh giá tác động dân số bắt buộc khi xây dựng chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án quan trọng (tương tự cơ chế đánh giá tác động môi trường), nhằm bảo đảm việc lồng ghép yếu tố dân số thực chất, có cơ quan thẩm định, tiêu chí và sản phẩm đánh giá cụ thể.
ĐBQH Nguyễn Tâm Hùng (TP. Hồ Chí Minh) phát biểu. Ảnh: Quang Khánh
Về thích ứng với già hóa dân số tại Chương IV dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng cho rằng, các quy định hỗ trợ chăm sóc tại nhà, cộng đồng, phát triển nhân lực lão khoa và thiết lập tổng đài tiếp nhận, xử lý thông tin cho người cao tuổi là rất cần thiết. Đại biểu đề nghị cân nhắc bổ sung cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ dịch vụ chăm sóc người cao tuổi dựa trên định mức kinh tế - kỹ thuật; tích hợp “tổng đài người cao tuổi” với mạng lưới an sinh cơ sở, quy định rõ cơ chế chuyển tuyến xử lý tình huống bạo hành, bỏ mặc người cao tuổi.
Kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh nêu rõ, nhiều ý kiến đề nghị tiếp tục nghiên cứu bổ sung, làm rõ, hoàn thiện các quy định về chính sách của Nhà nước về dân số và phát triển; nội hàm của dân số và phát triển. Cân nhắc để có thêm các biện pháp dài hạn, căn cơ nhằm đạt được mức sinh thay thế, bảo đảm tính khả thi của quy định, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Hoàn thiện các quy định về thích ứng với già hóa dân số, lồng ghép yếu tố “già hóa dân số” trong chính sách phát triển quốc gia và địa phương; có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích phát triển các hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi. Tăng tính toàn diện, khả thi của các quy định về nâng cao chất lượng dân số phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Tin: Thanh Chi