Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 8%, hệ thống ngân hàng phải cung ứng khoảng 2,5 triệu tỷ đồng cho nền kinh tế, tương ứng tăng trưởng tín dụng 16%. Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống ngân hàng tiếp tục cho vay cao hơn huy động, nên nhiều ý kiến cho rằng dư địa để ngành ngân hàng tăng trưởng tín dụng không còn quá nhiều.
Tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP xấp xỉ 140%
Theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), cứ 1% tăng trưởng GDP sẽ cần 2% tăng trưởng tín dụng.
Như vậy, tỷ lệ tín dụng trên GDP sẽ còn đẩy lên cao hơn nữa khi Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng từ hai con số trong những năm tới. Đây là bài toán khó mà ngành ngân hàng sẽ phải tìm lời giải.
Thống kê cho thấy, năm 2015, tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam là 89,7% thì năm 2020 đã là 114,3%, năm 2022 là hơn 125%. Hiện nay, tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam đã tăng cao, ở mức xấp xỉ 140%. Nếu tính cả lượng trái phiếu doanh nghiệp mà các ngân hàng đầu tư thì con số này còn cao hơn nữa. Đây là mức rất cao so với các nước có quy mô kinh tế tương đương hay thậm chí đi trước Việt Nam 15-20 năm.
Hiện nay, tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam đã tăng cao, ở mức xấp xỉ 140%
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, Ngân hàng Thế giới đã cảnh báo tình trạng dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam là một trong các nước cao nhất thế giới.
Ở góc độ nhà đầu tư, người quan sát thị trường, ông Lê Chí Phúc, Tổng giám đốc SGI Capital, cho rằng dư địa để hệ thống ngân hàng tăng trưởng tín dụng không còn quá nhiều. Bởi hệ thống ngân hàng không huy động được lượng tiền tương ứng với tăng trưởng tín dụng. Trong năm 2024 vừa qua, hệ thống ngân hàng tiếp tục cho vay cao hơn huy động khoảng 5% khiến hệ số thanh khoản và an toàn vốn của ngân hàng không cải thiện.
Điều này cũng được Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú chia sẻ tại hội thảo sử dụng vốn hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh được tổ chức mới đây: "Ngân hàng huy động 10 đồng nhưng cho vay trên 10 đồng rồi".
Theo ông Phúc, hiện nay, môi trường quốc tế và kinh tế vĩ mô vẫn còn nhiều biến động và tiềm ẩn rủi ro. Bởi thế, nếu hệ thống ngân hàng không đẩy mạnh huy động, hạ tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) thì khó có đủ sự chủ động về thanh khoản để đẩy mạnh tín dụng như kỳ vọng, đồng thời chống chịu các cú sốc bất ngờ (nếu có).
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng việc giảm tỷ lệ LDR cũng khá thách thức với các ngân hàng trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc lớn vào vốn ngân hàng. Đồng thời, năm nay, chủ trương của Chính phủ và NHNN là tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất thấp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, rất nhiều ngân hàng đã giảm lãi suất huy động theo định hướng của nhà điều hành. Theo thống kê của NHNN, từ cuối tháng 2 đến nay, 20 ngân hàng thương mại điều chỉnh giảm lãi suất, với mức giảm 0,1 điểm %/năm đến 0,9 điểm %/năm, tùy từng kỳ hạn và hình thức gửi tiền.
Ở kỳ hạn 12 tháng, chỉ duy nhất GPBank trả lãi suất từ 6%/năm, với mức lãi suất 6,05%/năm.
“Khi mặt bằng lãi suất huy động thấp thì kênh tiết kiệm ngân hàng không còn hấp dẫn với người dân và doanh nghiệp. Dòng tiền sẽ chọn các kênh khác có lợi hơn gửi ngân hàng; ví dụ như mua vàng; mua bất động sản, giữ USD, hay kể cả tiền số”, một chuyên gia cho hay.
Chất lượng tín dụng phải được nâng cao
Trong bối cảnh dư địa tăng trưởng tín dụng không còn nhiều, các chuyên gia cho rằng dòng vốn phải “chảy” đúng hướng, chất lượng tín dụng phải được nâng cao.
Thống kê của SGI Capital về nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp niêm yết và cả doanh nghiệp không niêm yết ở các lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ cho thấy có xu hướng giảm liên tục trong khoảng 5-7 năm trở lại đây.
Lý do là những doanh nghiệp tốt trên sàn chứng khoán thuộc các ngành sản xuất, thương mại và dịch vụ đã vươn lên về quy mô và vị thế, có dòng tiền mạnh và tích lũy được lượng vốn tự có đủ để tái đầu tư và tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp này cũng đã chậm lại so với mức trung bình cao của giai đoạn 2005-2015, dẫn đến nhu cầu vay vốn giảm bớt.
Đối chiếu với số liệu tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thì sẽ thấy tăng trưởng tín dụng cao nhất nằm ở 2 lĩnh vực là tiêu dùng và bất động sản (bao gồm cho vay mua nhà và cho chủ đầu tư phát triển dự án).
Ông Phúc nhận định: “Khả năng hấp thụ vốn của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch vụ có thể vẫn thấp trong thời gian tới do kinh tế toàn cầu chưa có nhiều khởi sắc, căng thẳng thuế quan có thể khiến dòng chảy thương mại trên thế giới bị gián đoạn. Đồng thời, tiêu dùng trong nước phục hồi nhưng ở mức độ chậm khiến doanh nghiệp thận trọng trong việc đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Do đó, nhiều khả năng tín dụng lại chảy vào bất động sản hoặc là các ngành nghề liên quan đến xây lắp hạ tầng”.
Để hướng dòng tín dụng vào tiêu dùng, ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng cho rằng phải từ 2 giải pháp lớn.
Đầu tiên là phải hỗ trợ hơn nữa cho sản xuất kinh doanh thì mới tạo được công ăn việc làm. Người dân chỉ sẵn sàng tiêu tiền nếu họ biết có thể làm ra tiền, nhưng với những khó khăn hiện tại của doanh nghiệp, đây cũng là một bài toán khó.
Thứ hai là cần có hành lang pháp lý tốt hơn nữa về thu hồi nợ cho các công ty tài chính tiêu dùng, ngân hàng thương mại. Nếu pháp lý được củng cố, quyền của chủ nợ được bảo đảm tốt hơn thì các ngân hàng thương mại và công ty tài chính tiêu dùng sẽ mạnh dạn tăng tín dụng tiêu dùng ra nền kinh tế.
Tuy nhiên, chuyên gia này cũng lưu ý, khi tiền được đưa ra nền kinh tế nhiều, tăng trưởng tín dụng cao thì sẽ có những thách thức nhất định, gia tăng áp lực cho lạm phát, lãi suất.
Thanh Hoa