Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Quản lý trên nền tảng khoa học và kiểm soát rủi ro
Một sửa đổi, bổ sung quan trọng của dự thảo Luật lần này là đã bổ sung Chương VIIa vào sau Chương VII của Luật hiện hành nhằm quy định cơ chế quản lý chặt chẽ đối với các hoạt động có liên quan đối với đất hiếm. ĐBQH Trịnh Thị Tú An (Lâm Đồng) đánh giá, đây là bước hoàn thiện pháp lý đúng thời điểm, phù hợp với bối cảnh thế giới đang cạnh tranh mạnh mẽ về vật liệu chiến lược, năng lượng tái tạo và chuỗi cung ứng công nghệ cao. Việc xác định đất hiếm là tài nguyên đặc biệt quan trọng cần được quản lý thống nhất ở cấp quốc gia cũng là định hướng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển dài hạn của đất nước.
Trong bối cảnh nguồn cung toàn cầu thiếu hụt, đất hiếm ngày càng trở thành tài nguyên chiến lược, nhưng đồng thời là loại khoáng sản có hệ số rủi ro môi trường rất lớn. Toàn bộ chuỗi tuyển - tách phát sinh chất thải chứa phóng xạ tự nhiên (thorium, uranium), hỗn hợp kim loại nặng và dung dịch axit khó xử lý nếu không có công nghệ tiên tiến. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều quốc gia từng khai thác ồ ạt nhưng thiếu kiểm soát đã phải đối diện với ô nhiễm phóng xạ tồn lưu, chi phí phục hồi môi trường vượt xa giá trị kinh tế thu được.
ĐBQH Trịnh Thị Tú An (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Từ những bài học đó, đại biểu Trịnh Thị Tú An đề nghị dự thảo Luật cần khẳng định nguyên tắc quản lý đất hiếm trên nền tảng khoa học, kiểm soát rủi ro nghiêm ngặt và đặt yêu cầu môi trường ở mức cao nhất. Theo đó, phải quy định các ngưỡng an toàn kỹ thuật bắt buộc như: công nghệ tuyển - tách khép kín, mô hình hóa phát tán phóng xạ, hệ thống quan trắc liên tục, xử lý bùn thải đạt chuẩn IAEA, cùng yêu cầu phục hồi môi trường ngay từ giai đoạn cấp phép…
“Chỉ các doanh nghiệp có đủ năng lực công nghệ, tài chính và quản trị môi trường đạt chuẩn quốc tế mới được tham gia”. Nhấn mạnh như vậy, đại biểu cũng đề nghị dự thảo Luật cần nhấn mạnh vai trò giám sát độc lập của cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân quốc gia trong toàn bộ chuỗi hoạt động tuyển - tách - chế biến đất hiếm, từ thẩm định công nghệ, đánh giá rủi ro, kiểm tra hiện trường, đến giám sát xử lý chất thải và phục hồi môi trường.
Về quy định thời hạn nộp hồ sơ cấp phép trong 36 tháng với khoáng sản nhóm I, nhóm II, đại biểu cho rằng, cần linh hoạt đối với đất hiếm - loại tài nguyên có chu kỳ kỹ thuật dài, yêu cầu thử nghiệm công nghệ và đánh giá môi trường sâu, thời gian chuẩn bị dự án từ 3 đến 5 năm. Bởi, nếu thời hạn ưu tiên quá ngắn, nhà đầu tư có thể buộc phải lập dự án “vội vàng” để giữ quyền, dẫn đến rủi ro không hình thành chế biến sâu.
Bên cạnh đó, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh cũng nhấn mạnh, hiện đại hóa cơ sở dữ liệu địa chất - khoáng sản là yêu cầu rất cấp bách. Một hệ thống dữ liệu số hóa, thống nhất, được cập nhật liên tục và chia sẻ theo phân quyền sẽ giúp minh bạch hóa quá trình cấp phép, giám sát, thẩm định công nghệ, đồng thời giảm thiểu nguy cơ thất thoát tài nguyên. Dữ liệu đầy đủ cũng giúp các địa phương chủ động hơn trong quy hoạch sử dụng đất và thu hút đầu tư đúng hướng.
Quy định rõ vai trò của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trong thẩm định cấp phép khai thác đất hiếm
Cũng quan tâm đến Chương VIIa, ĐBQH Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đánh giá cao khi dự thảo Luật đã quy định đất hiếm trở thành tài nguyên chiến lược đặc biệt, xác định rõ sẽ không xuất thô, quản lý đất hiếm chặt hơn nhóm tài nguyên Nhóm 1… Nhưng, đại biểu cũng băn khoăn khi yếu tố về quốc phòng, an ninh chưa được làm rõ trong chương này.
ĐBQH Trịnh Xuân An (Đồng Nai) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Thực tế, đối với công nghiệp quốc phòng nói chung, công nghiệp chế tạo vũ khí nói riêng, đất hiếm là nền tảng của nhiều công nghệ nền, công nghệ lõi, đặc biệt là đối với vũ khí chính xác cao. Trong khi đó, khẳng định sức mạnh của một dân tộc, khẳng định sức mạnh quốc gia sẽ phải thông qua hệ thống vũ khí, thông qua hệ thống công nghiệp quốc phòng. Thậm chí, các quốc gia đôi khi cũng sử dụng đất hiếm thành một yếu tố để “mặc cả” với nhau về mặt chiến lược, có thể gây sức ép với nhau, nhất là về quốc phòng, an ninh.
Từ yêu cầu thực tế này, đại biểu Trịnh Xuân An đề nghị bổ sung quy định về những mỏ đất hiếm hoặc khu dự trữ dành riêng cho phục vụ quốc phòng và an ninh; bổ sung quy định về kiểm soát công nghệ và dữ liệu liên quan đến đất hiếm, đặc biệt liên quan đến quốc phòng, an ninh; một số nội dung có thể quy định cấm khai thác, chỉ cho phép khai thác phục vụ công nghiệp quốc phòng…
Theo đại biểu, cần bố trí thành một điều ở trong Chương VIIa liên quan đến đất hiếm đối với quốc phòng, an ninh. “Bổ sung nội dung này trong dự thảo Luật để khẳng định vai trò đất hiếm đối với định vị vị thế của quốc gia. Các nước lâu nay đã làm việc này nên sửa đổi, bổ sung Luật Địa chất và khoáng sản là một cơ hội để chúng ta thực hiện yêu cầu đó”, đại biểu nhấn mạnh.
Cùng quan điểm này, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh đề xuất bổ sung khoản 5 vào Điều 85d theo hướng quy định rõ yêu cầu trước khi trình hồ sơ cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản đất hiếm tại các khu vực nhạy cảm hoặc khu vực liên quan đến quốc phòng, an ninh, bắt buộc phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an về các nội dung liên quan đến bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đây là biện pháp cần thiết để bảo đảm quản lý thống nhất tài nguyên chiến lược, đồng thời phòng ngừa rủi ro liên quan đến chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia.
ĐBQH Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Cũng liên quan đến đất hiếm, ĐBQH Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) đề nghị, bổ sung quy định rõ cơ chế kiểm soát xuất khẩu và tỷ lệ chế biến sâu tối thiểu trong nước, nhằm bảo đảm đất hiếm thực sự là tài nguyên chiến lược phục vụ phát triển công nghiệp quốc gia, tránh nguy cơ xuất khẩu thô và lệ thuộc công nghệ nước ngoài trong chuỗi giá trị đất hiếm.
Giải trình về nội dung này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng nêu rõ, theo số liệu công bố chính thức, Việt Nam là một trong những quốc gia có trữ lượng đất hiếm lớn hàng đầu thế giới, khoáng sản này hiện nằm ở 21 tỉnh, thành phố.
Quang cảnh phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
“Triển khai thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã khoanh định cơ bản đầy đủ các khu vực mỏ có khoáng sản và tổ chức quản lý chặt chẽ; đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng chiến lược quốc gia về đất hiếm trình Chính phủ và cấp có thẩm quyền ban hành đầu năm 2026”, Bộ trưởng khẳng định.
Với việc dự thảo Luật tách đất hiếm thành chương riêng để điều chỉnh, đồng thời có những chế tài để tạo cơ sở cho Chính phủ ban hành các văn bản dưới luật, Bộ trưởng tin tưởng, đất hiếm sẽ thực sự trở thành một tài nguyên quan trọng để khai thác, góp phần phát triển đất nước trong thời gian tới, trên tinh thần hình thành một chuỗi giá trị khép kín và hạn chế tối đa việc tránh xuất khẩu nguyên liệu thô.
Thanh Hải