Tín hiệu mới cho cơ chế cũ
Đến năm 2025, việc tiến tới bỏ room tín dụng đã được Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú nêu tại Hội nghị Thủ tướng làm việc với các NHTM, đã được giới chuyên gia đồng tình ủng hộ.
Ông Lê Hoài Ân, chuyên gia nghiên cứu chiến lược NH cho biết, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã bãi bỏ hạn mức tín dụng. Việt Nam là trường hợp đặc thù do vừa cần duy trì tăng trưởng cao, vừa cần kiểm soát dòng vốn chảy vào các lĩnh vực đầu cơ.
Tuy nhiên, khi thị trường chứng khoán, trái phiếu đang phát triển, triển vọng nâng hạng ngày càng rõ nét, NHNN đã có đủ cơ sở để tiến tới thay thế hạn mức bằng bộ tiêu chí an toàn mới.
Ngày 30-6, NHNN đã ban hành Thông tư 14, được coi là tiền đề quan trọng cho lộ trình thực thi các quy định về hệ số an toàn vốn thay cho cơ chế room tín dụng.
Ngày 3-7-2025, tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo NHNN tiến tới bỏ dần công cụ quản lý hành chính “hạn mức tín dụng”, chuyển sang điều hành theo nguyên tắc thị trường dựa trên bộ tiêu chí kiểm soát rủi ro khoa học, minh bạch và quốc tế. Điều này một lần nữa chính sách tiền tệ sẽ mở đường cho môi trường cạnh tranh công bằng, thúc đẩy phân bổ vốn hiệu quả, và tạo cú hích mới cho thị trường tài chính Việt Nam.
Trên thực tế từ năm 2024, NHNN đã lần đầu tiên thực hiện giao toàn bộ chỉ tiêu tín dụng ngay từ đầu năm, thay vì điều chỉnh linh hoạt theo từng quý như trước.
Năm 2025, điều này tiếp tục được duy trì, cho thấy định hướng điều hành rõ ràng hơn. Thay vì đặt vấn đề “bỏ hay không bỏ room tín dụng”, cách làm mới cho thấy NHNN đang chuyển sang tư duy “khi nào là thời điểm phù hợp để bỏ”, và từng bước chuẩn bị cho lộ trình thoát khỏi công cụ quản lý hành chính này.
Ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ cho biết, NHNN cũng nhận thấy đây là một trong những giải pháp hành chính có tính thời điểm, và NHNN đã có lộ trình hướng tới việc gỡ bỏ công cụ hành chính này.
Vừa qua, NHNN đã gỡ bỏ room tín dụng cho nhóm NH nước ngoài, các tổ chức tín dụng phi NH, chỉ còn áp dụng với các NHTM. Tuy nhiên, quá trình này cần được thực hiện cẩn trọng, vì hệ thống vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định.
NHNN sẽ có giải pháp sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, đồng thời ổn định vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, và sẽ có báo cáo cụ thể với Thủ tướng Chính phủ về lộ trình triển khai việc bãi bỏ công cụ này.
Những chốt chặn cần vượt qua
Những năm gần đây, hệ thống NH Việt Nam cũng có những cải thiện đáng kể về quản trị, chất lượng tài sản và khả năng kiểm soát rủi ro. Nhưng thực sự vẫn còn một số chốt chặn cần phải vượt qua, để khi dỡ bỏ room tín dụng dòng chảy vốn vẫn an toàn. Trong đó việc xây dựng một bộ tiêu chí kiểm soát an toàn tín dụng là yêu cầu cấp thiết.
Bộ tiêu chí này cần rõ ràng, minh bạch, phù hợp thông lệ quốc tế nhưng cũng phải sát với đặc thù thực tiễn của hệ NH Việt Nam. Đặc biệt là củng cố các bộ đệm an toàn như tỷ lệ an toàn vốn (CAR), khả năng thanh khoản và mức độ trích lập dự phòng rủi ro.
Dữ liệu từ FiinGroup cho thấy, tỷ lệ CAR của hệ thống NH Việt Nam tính đến cuối năm 2024 đạt 12,63%, nhích nhẹ so với các năm trước (11,32% năm 2020 và 11,88% năm 2023), nhưng vẫn là mức thấp nhất trong khu vực ASEAN, chẳng hạn như Thái Lan đạt 20,42%, Malaysia 17,83% và Philippines 16,5%.
Điều này cho thấy bộ đệm an toàn của hệ thống NH Việt Nam còn khá mỏng, dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ nợ xấu gia tăng và thị trường bất động sản vẫn chưa hồi phục rõ nét.
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội NH Việt Nam cũng chia sẻ, hiện một số NH dù công bố tuân thủ Basel II, III nhưng chưa có đánh giá độc lập về năng lực quản trị rủi ro, khiến chính bản thân họ cũng không đủ tin tưởng vào hệ thống của mình để tự quyết định việc mở rộng tín dụng, nên vẫn coi hạn mức tín dụng là điểm tựa an toàn.
Ông Nguyễn Quốc Hùng cũng băn khoăn, nếu không có biện pháp kiểm soát tốt, dòng vốn có thể chảy lệch hướng vào các lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán hay thậm chí các “sân sau” của NH.
PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TPHCM cũng nhìn nhận, năng lực quản trị rủi ro giữa các NH hiện vẫn chênh lệch đáng kể. Những NH lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, ứng dụng công nghệ cao, quen thuộc với các chuẩn mực quốc tế, có thể kiểm soát tốt tốc độ tăng trưởng tín dụng và đảm bảo an toàn hệ thống. Trong khi đó, một số NH nhỏ, năng lực yếu, nếu thiếu giám sát chặt chẽ, có thể đẩy tín dụng quá mức, dẫn đến gia tăng rủi ro hệ thống.
Ở một góc nhìn khác, TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu, Đại học VinUni cho rằng, để tiến tới bỏ hoàn toàn room tín dụng, NHNN cần được trao quyền độc lập trong xác lập mục tiêu chính sách tiền tệ, như mô hình đang được áp dụng ở nhiều quốc gia.
Bởi nếu NHNN vẫn phải đảm bảo đồng thời nhiều mục tiêu từ lãi suất thấp, ổn định tỷ giá đến kiểm soát lạm phát mà không còn công cụ phân bổ tín dụng, việc điều hành thực tế sẽ rất khó khăn.
Nhưng trong bối cảnh tín dụng NH vẫn chiếm hơn 60% tổng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, việc xóa bỏ room tín dụng chỉ có thể thành công khi đi cùng sự phát triển mạnh mẽ của các kênh huy động vốn thay thế như thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường cổ phiếu.
Khi ấy việc bãi bỏ công cụ room tín dụng mới phát huy hiệu quả và không làm phát sinh rủi ro hệ thống.
Giới chuyên gia cho rằng, muốn bỏ room tín dụng cần phải đáp ứng đủ 5 điều kiện: Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất; nâng cao năng lực tài chính, đặc biệt là vốn tự có; hiện đại hóa hệ thống giám sát rủi ro; minh bạch thông tin; và phát triển mạnh thị trường vốn để chia sẻ gánh nặng với hệ thống NH.
Thiên Minh