"Ngó lên/ trông lên/ nhìn lên" vốn là mô-típ quen thuộc trong ca dao: "Ngó lên sao tỏ trăng lờ/ Duyên đây bớ bậu, bậu chờ duyên đâu", "Ngó lên chót vót ngọn cây bầu/ Thấy đôi diệc đậu em sầu phận em", "Ngó lên nuộc lạt mái nhà/ Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu"… Ngó là nhìn có chú tâm để mắt đến, thí dụ "Đánh chó ngó chủ", lưu ý xem trước sau, cũng tựa như "Chặt tre phải dè đầu mắt". Với ý thức để tâm để mắt đến, nên mới thấy rõ "côi đôộng", từ "côi" này, ta đã gặp trong câu "Mẹ góa con côi", vậy có liên quan gì không? Đọc câu hò này, ta sẽ dễ dàng suy luận:
Nữ:
Tiếng đồn anh hay chữ
Em hỏi thử vài lời
Dưới dương gian có họ, rứa côi trời họ chi?
Nam:
Em nghiêng tai xuống đất
Kêu cho đất ơi
Tới đây anh nói họ ông trời cho em nghe
Ta hoàn toàn có thể biết côi/ côi trời là trên trời. Về từ "đôộng", nếu ghi theo tiếng Việt toàn dân vẫn cùng nghĩa là "động", chính là chỉ cái hang núi, Từ "động" theo nghĩa này, ngày trước Chúa Trịnh khi lên chơi động Hương Tích đã khen, đã gọi "Thiên Nam đệ nhất động". Trong bài thơ này, khi nhìn lên động tác giả chộ/ thấy "xeng xeng", ta hiểu "xanh xanh" bởi thổ âm Quảng Trị phát âm "eng" chính là "anh".
Suy ra câu thứ 2: "Rú nậy rào su nác chảy queng" thì "chảy queng" là "chảy quanh"; "nác" là tiếng Việt cổ mà “Từ điển Việt-Bồ-La” (1651) đã ghi nhận: "nước"; "rào su" thì rào là sông, su là sâu; rú là rừng/ rừng rú, nậy là to, lớn.
Câu thứ 3: "Cà lơ đương xuốc cươi phơi lúa", do có từ "phơi lúa", ta biết động tác này là của ai đó. "Đương" là gì? Trong truyện thơ Lục Vân Tiên có câu: "Bao giờ cho tới bắc phang/ Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh" - "phang" chính là "phương" như ta còn gặp trong biến âm của tràng: trường, đàng: đường v.v... Thế thì, "đang" cùng nghĩa là "đương" và ngược lại.
Làng cổ Bích La (Quảng Trị) - ảnh tư liệu.
Cà lơ đang xuốc, vậy "xuốc" là gì? Thật dễ hiểu nếu ta biết đến vật dụng thể hiện động tác trong câu đố: "Trong nhà có bà hay la hay lết". Là đố cái gì? Là cái chổi dùng để quét nhà, quét sân. Tục ngữ có câu: "Bói ra ma, quét nhà ra rác". Ở đây, không phải xuốc/ quét nhà mà chính là quét cươi. Cươi là sân. Tục ngữ có câu: "Sấm tháng Mười cày cươi mà cấy", kinh nghiệm của bà con nông dân ở vùng Quảng Trị, Quảng Bình cho biết đến tháng 10 Âm lịch vẫn mưa nhiều, dẫu có cày sân trước nhà lên mà cấy thì cũng ê hề nước, cũng được mùa.
Vậy, ai "đương xuốc cươi phơi lúa/ đang quét sân phơi lúa"?
Rắc rối nhất là từ "cà lơ", theo “Đại từ điển tiếng Việt” (1999): "Thiếu đứng đắn, lâng láo trong cung cách, thường dùng để chỉ bọn người lêu lổng, du đãng", e rằng cách giải thích này cần xem lại, cà lơ là từ chỉ trạng thái đi lửng lơ, lang thang, không chủ đích của ai đó vô công rỗi nghề, ở mức độ cao hơn còn có "cà lơ phất phơ", chứ du đãng du côn, du thủ du thực gì đây? Từ cà lơ, người miền Nam xưa còn dùng từ cùng nghĩa: "cà xiềng: ngao du không biết công chuyện chi mà làm. Bá lếu, không nên sự gì", theo "Đại Nam quấc âm tự vị" (1895).
Như vậy, cà lơ không thể là từ nhằm chỉ ai đó làm động tác nêu trên. Cần phải hiểu theo nghĩa của tiếng Việt toàn dân mà dưới thời vua Minh Mạng, Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng: "Lơ thơ dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông rợ mái nhà" - chính là từ "rợ" - là dân tộc ít người. Ở Quảng Nam xưa, khi nói ai đó có cái bụng bí rợ là chỉ cái bụng đó to tròn như thùng nước lèo, thùng tô nô, nói như dân nhậu thời @ là bụng bia; tính rợ là tính nhẫm trong đầu, không cần ghi ra giấy; bi rợ là bí tròn, trồng trên nương rẫy.
Câu thứ 4: "Eng miềng đau bẹ nác đa xeng", về từ "xeng", ta đã hiểu là "xanh", suy ra "eng" là "anh"; "miềng" là "mình"; "đa" lại chính là "da" như ta đã có các từ cùng nghĩa dù thay đổi giữa "đ" và "d", thí dụ: cây da/ cây đa, cái đĩa/ cái dĩa…; về từ "nác" ta đã biết là "nước". Éo le nhất ở câu này, chính là từ bẹ/ đau bẹ, nghĩa là gì?
Ngày xưa, lúc thất bát hoặc giáp mùa, người ta cải thiện bữa ăn cho đỡ đói còn bằng cách nấu "cháo bẹ" là nấu từ ngô/ bắp còn non; khác với "cháo ngô" là hạt ngô già đem xây nát, mịn, quậy lên thành cháo. Như vậy bẹ hiểu theo nghĩa này không thể áp dụng cho câu thơ trên. Không sao cả, ta sẽ tìm ra "đáp án" khi đọc lại câu văn trong tiểu thuyết "Lều chõng" của Ngô Tất Tố: "Khi đi, người rất béo tốt, lúc về mặt mũi xanh xao, chẳng khác gì người ngã nước". Đau bẹ, chính là ngã nước, là bị nước độc mà đau ốm, sốt rét.
Từ những câu thơ thể hiện theo lời ăn tiếng nói của người Quảng Trị, ta hoàn toàn có thể hiểu như sau:
Ngó lên trên động thấy xanh xanh
Rừng lớn sông sâu nước chảy quanh
Người rợ đang quét sân phơi lúa
Anh mình sốt rét nước da xanh
Câu chuyện về vỡ lòng tiếng Quảng Trị, ta tạm dừng ở đây được chưa? Chưa. Vì sau khi nghe giải thích cảm thấy ưng bụng quá, chi bằng ta tiếp tục thêm một vài từ khác nữa. Ta hãy đọc một khổ thơ in trong tập "Eng về Quảng Trị đi em" (NXB Hội Nhà văn) của nhà thơ Ngọc Hồ với nhan đề "Tra rồi, đi bắt rế".
Với từ "tra", ngay lập ta nhớ đến câu tục ngữ như "Tra chân vào cùm"; hoặc các cách nói như tra ngô, tra đậu; tra muối vào canh, lại có câu: "Chèo ghe đi bán cá tra/ Nài bán mỗi nhà, chỉ có mấy con" (ca dao Nam Bộ); "Em hỏi anh chữ chi là chữ chôn xuống đất/ Chữ chi là chữ cất trên tra?" (hò Huế): "Thịt ếch ăn với bù khô/ Ăn tra đời trót kiếp" (Hát dặm Nghệ Tĩnh)… Vậy, từ nghĩa của các câu này, ta có thể áp dụng để hiểu từ "tra/ tra rồi"? Tra có nghĩa là già.
Câu này còn có từ khó hiểu là "rế/ bắt rế", vì rằng, khi nói đến cái rế, tôi dám chắc không người miền Trung nào lại không nhớ hồi nhỏ một khi trong làng có đám cưới. mình đã từng theo bạn bè hò reo ầm ĩ: "Cô dâu chú rể đội rế lên đầu". Cái rế là cái gì? Thay vì giải thích lòng vòng, ta hãy vận dụng tục ngữ: "Ăn trôi nồi thủng rế", "Hỏng nồi vơ rế", "Rế rách đỡ nóng tay", "Chổi cùn rế rách"… Có thể hiểu rế là là đồ đan bằng tre, mây, vành tròn, nông trèn trẹt, có công dụng là khi hạ nồi, niêu, trách, trã trên bếp mình đặt vào đó. Một khi đã hiểu từ "rế", ta thấy câu "rế/ bắt rế" là vô nghĩa, bởi với cái rế không ai dùng từ này, phải là lấy/ đưa/ cầm, chứ? Rế ở đây là dế/ con dế. Lúc ấy:
Cỏ đẫm sương chin miềng đi thè thẹ
Tiếng reng reng loang đưới bại côi bờ
Tim bịch bịch răng tôi hồi hộp dữ
Té ra đương rình bắt lại tuổi thơ
Ta lại không hiểu câu 1, dẫu có tra từ điển phổ thông từng trang, từng từ ắt không ai tìm ra nghĩa của từ "chin miềng"; rồi khi nói về động tác đi ắt ai cũng nhớ đến các từ như đi dạo, đi hai hàng, đi chân chữ bát, đi nhanh, đi chậm, đi rảo, đi sè sẹ… Vậy "đi thè thẹ" là đi làm sao? Là đi nhè nhẹ. Cái gì đi? Đi bằng cái gì/ Cái chân, chứ còn gì nữa, vậy suy ra "chin miềng" là "chân mình".
Câu thơ thứ 2 cũng "đánh đố" người đọc: "Tiếng reng reng loang đưới bại côi bờ". Về tiếng reng reng, ta hiểu đại khái là âm thanh như tiếng chuông rung liên tục thành hồi dài và nhanh; nhưng với từ "đưới/ đưới bại" thì… ta bó tay toàn tập. Trong tiếng Việt toàn dân, bản thân từ "đưới" có nghĩa gì không? Đã thế, lại còn "đưới bại" thì có lẽ nhiều người không hiểu. Xin giải thích, "tiếng reng reng" là âm thanh kêu ri ri của con dế; "đưới bại côi bờ" là dưới bãi trên bờ.
Kế tiếp, câu 3: "Tim bịch bịch răng tôi hồi hộp dữ". Răng là sao, về từ bịch, ta hiểu là thứ bồ to dùng đựng thóc, là tiếng kêu nặng như ngã cái bịch. Nhưng khi nói "bịch bịch" là hiểu theo nghĩa tiếng vỗ bao bị đựng đầy; là tiếng vỗ bụng khi ăn no như ta gặp trong Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ:
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Câu thơ thứ 4 thì dễ hiểu rồi, không cần bàn thêm, nhưng ba câu vừa nêu đúng là khó xơi, nếu không giải thích cụ thể. Sở dĩ như thế, vì tác giả dùng thổ âm, thổ ngữ của người Quảng Trị. Vậy nên, tôi "phiên dịch" cho dễ hiểu là bài thơ này có nhan đề “Già rồi, đi bắt dế”:
Cỏ đẫm sương chân mình đi nhè nhẹ
Tiếng ri ri loang dưới bãi trên bờ
Tim thình thịch sao tôi hồi hộp quá
Té ra đang rình bắt lại tuổi thơ.
Lê Minh Quốc