“GẬT GÙ đgt. Cúi nhẹ đầu rồi ngẩng lên nhiều lần nối tiếp nhau, biểu thị thái độ đồng tình, tán thưởng. Gật gù khen hay. “Lí cựu, phó lý, thủ quỹ châu đầu trên lớp bát đĩa đầy nhặng xanh gật gù nhấc chén lên lại đặt chén xuống” (Ngô Tất Tố)”.
Thực ra “gật gù” là từ ghép đẳng lập [nghĩa đồng đại]: gật chỉ động tác cúi đầu xuống rồi ngẩng lên ngay, thường để chào hỏi hay tỏ sự đồng ý (như: gật đầu chào ~ Trần công vừa ý gật đầu, Tiểu thư lại thấy ở đâu đến gần - Nhị độ mai); còn gù có nghĩa là gật đầu xuống, ngửng đầu lên liên tục (gật gật) để ra ám hiệu thúc giục, rủ rê ai đó. Tiếng Thanh Hóa phát âm “gù” là “gầu”. Ví dụ: Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật gầu khen ngon (Ca dao); Lại gầu nhau đi chơi rồi (tiếng cổ = gầu chắc đi chơi).
Khi nói chim cu gù, người ta hình dung ra tiếng “gù” trong họng con chim, đồng thời, cổ và đầu vươn lên, rụt xuống liên tục như tán tỉnh, thuyết phục. Nhiều cuốn từ điển hãy còn ghi nhận “gù” là một từ độc lập trong hành chức:
- Từ điển tiếng Nghệ: “gù: rủ rê - gù bạn đi chơi”.
- Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức): “gù • (B) ghè, ve, tán - tỉnh, dùng lời ngọt - dịu, duyên - dáng để o mèo: Gù con gái người ta”.
Tham khảo: Với câu ca Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật gầu khen ngon, có người sửa “gật gầu khen ngon” thành “gật đầu khen ngon”, làm hỏng đi ý tứ rất đắt của dân gian.
Thông thường, râu tôm và ruột bầu (ruột quả bí ngô; người Thanh Hóa gọi là bầu lào) là những thứ bỏ đi. Nhưng một khi vợ chồng tâm đầu ý hợp, yêu thương nhau, thì vẫn “chồng chan vợ húp”, một cách hào hứng, ngon lành. Họ là đôi vợ chồng dù thiếu thốn nhưng hạnh phúc! Cái sự “gật gầu khen ngon” thể hiện sự đồng điệu, tâm đắc của đôi vợ chồng, trong khi “gật đầu” chỉ là sự thừa nhận, đồng ý, chứ không thể nói lên sự tâm đắc, đồng điệu.
Như vậy, từ những phân tích và chứng minh qua các ngữ liệu như “gật đầu chào”; “gù nhau đi chơi”, chúng ta có thể đi đến kết luận: gật gù là từ ghép đẳng lập, không phải từ láy.
Mẫn Nông (CTV)