Ngày 3-10, Cổng thông tin điện tử TAND Tối cao vừa công bố Bản án số 47/2025/HS-ST của TAND quận Nam Từ Liêm (cũ). Đây là một vụ án liên quan đến hợp đồng bảo hiểm.
Phạm 2 tội lạm dụng và lừa đảo
Theo hồ sơ, ngày 19-11-2019, Đỗ Thế M là cộng tác viên của công ty TNHH B. Tuy không được giao tư vấn, thu tiền khách hàng theo hợp đồng bảo hiểm của anh Nguyễn Ngọc A nhưng M vẫn tư vấn, dùng phiếu thu của công ty để thu số tiền hơn 16 triệu đồng của anh Ngọc A.
Sau đó, M làm giả phiếu yêu cầu thay đổi chi tiết hợp đồng bảo hiểm, phiếu khôi phục hiệu lực hợp đồng bảo hiểm để nộp về công ty số tiền hơn 4 triệu đồng và chiếm đoạt số tiền hơn 12 triệu đồng của công ty B.
Hình minh họa.
Cạnh đó, từ ngày 3-10-2020 đến năm 2022, M đã bị buộc thôi việc tại Công ty TNHH B nhưng vẫn đưa ra thông tin gian dối là đại lý bảo hiểm của công ty đến thu phí bảo hiểm của khách hàng thường niên để chiếm đoạt của anh Nguyễn Ngọc A tổng số tiền hơn 46 triệu đồng.
Số tiền chiếm đoạt được của Công ty và anh A, bị cáo M đã tiêu xài cá nhân hết.
Cáo trạng truy tố bị cáo M về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện VKS đề nghị xử phạt bị cáo M 30 - 36 tháng tù về cả hai tội.
Về dân sự, buộc bị cáo bồi thường cho anh A số tiền hơn 46 triệu đồng, bồi thường cho công ty TNHH B số tiền hơn 12 triệu đồng.
Có nhận thức pháp luật nhưng do lòng tham nên chiếm đoạt tiền
HĐXX nhận định: Tại tòa bị cáo khai nhận hành vi làm giả phiếu yêu cầu thay đổi chi tiết hợp đồng bảo hiểm, phiếu khôi phục hiệu lực hợp đồng bảo hiểm để nộp về công ty số tiền hơn 4 triệu đồng và chiếm đoạt số tiền hơn 12 triệu đồng của công ty B. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 175 BLHS.
Cạnh đó, khi đã bị buộc thôi việc tại Công ty nhưng vẫn đưa ra thông tin gian dối là đại lý bảo hiểm của công ty đến thu phí bảo hiểm của khách hàng thường niên để chiếm đoạt hơn 46 triệu đồng của anh A. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS.
Theo HĐXX, lời khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ được và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc nhằm đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Bị cáo M có nhận thức pháp luật nhưng do lòng tham nên đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của người khác để sử dụng cá nhân. Nhân thân đang chấp hành án tại trại giam theo một bản án của TAND quận Tây Hồ, Hà Nội về hành vi đã thực hiện sau hành vi bị xét xử trong vụ án này. Do vậy, lần phạm tội này của bị cáo không bị tính là tiền án nhưng cũng đủ thấy thái độ chấp hành pháp luật của bị cáo.
Bị cáo phạm tội hai lần trở lên đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 BLHS, chưa bồi thường thiệt hại nên cần xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về việc phạm tội.
Từ đó, HĐXX xử phạt bị cáo M 12 tháng tù về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và 24 tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 3 năm tù. Tổng hợp hình phạt với bản án 12 năm tù trước đó, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 15 năm tù.
Về dân sự, buộc bị cáo M bồi thường cho anh A số tiền hơn 46 triệu đồng và công ty TNHH B số tiền hơn 12 triệu đồng.
YẾN CHÂU