Thực trạng đáng báo động
Khi Kentaro Yokobori chào đời cách đây gần 10 năm, cậu bé là đứa trẻ sơ sinh đầu tiên ở quận Sogio, làng Kawakami sau 25 năm. Sự ra đời của cậu bé giống như một phép màu đối với nhiều người dân trong làng. Những người thân yêu đã đến thăm cha mẹ cậu, Miho và Hirohito, trong hơn một tuần hầu hết đều là người cao tuổi.
Trong suốt một phần tư thế kỷ không có trẻ sơ sinh, dân số làng đã giảm hơn một nửa, chỉ còn 1.150 người - giảm từ 6.000 người cách đây 40 năm khi những cư dân trẻ tuổi rời đi và những cư dân lớn tuổi qua đời. Nhiều ngôi nhà bị bỏ hoang, một số bị động vật hoang dã xâm chiếm.
Năm 2024, dân số Nhật Bản có mức giảm kỷ lục, hơn 900.000 người. Ảnh: CNN.
Kawakami chỉ là một trong vô số những thị trấn và ngôi làng nhỏ ở nông thôn bị lãng quên và bỏ bê khi những người Nhật trẻ tuổi đổ xô đến các thành phố. Hơn 90% người Nhật hiện sống ở các khu vực đô thị như Tokyo, Osaka và Kyoto - tất cả đều được kết nối bằng hệ thống tàu cao tốc Shinkansen luôn đúng giờ của Nhật Bản.
Điều này khiến các vùng nông thôn và các ngành như nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng, có thể sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những năm tới khi lực lượng lao động già hóa. Đến năm 2024, số lượng người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp đã giảm từ 2,25 triệu người của 10 năm trước đó xuống còn 1,9 triệu người.
Dữ liệu do Bộ Nội vụ và Truyền thông công bố hôm 6/8 cho thấy số lượng công dân Nhật Bản đã giảm 908.574 người vào năm 2024, đưa tổng dân số giảm còn 120 triệu người. Kể từ khi đạt đỉnh 126,6 triệu người vào năm 2009, dân số đã giảm trong 16 năm liên tiếp, do nhiều yếu tố như nền kinh tế đang gặp khó khăn và các chuẩn mực giới tính ăn sâu bén rễ.
Với việc dân số Nhật Bản dự kiến sẽ tiếp tục giảm mạnh trong nhiều thập kỷ tới, đất nước này sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề đối với hệ thống lương hưu và chăm sóc sức khỏe, cũng như các cơ sở hạ tầng xã hội khác vốn khó duy trì do lực lượng lao động ngày càng thu hẹp.
Chính phủ Nhật Bản đã cố gắng chống lại sự suy giảm này trong hơn một thập kỷ, với những nỗ lực được đẩy nhanh trong những năm gần đây khi quy mô đầy đủ của cuộc khủng hoảng trở nên rõ ràng - thực hiện mọi biện pháp từ cung cấp trợ cấp sinh nở và nhà ở đến khuyến khích các ông bố nghỉ phép chăm con.
Nhưng mỗi năm, số trẻ em được sinh ra lại ít hơn và số ca tử vong được ghi nhận lại tăng lên một vòng luẩn quẩn và là triệu chứng của tình trạng dân số ngày càng già hóa. Tỷ lệ người cao tuổi quá cao chiếm gần 30% tổng dân số, theo dữ liệu mới trong khi tỷ lệ người trẻ tuổi, trong độ tuổi sinh đẻ và lao động, liên tục giảm.
Năm ngoái cũng không ngoại lệ. Số ca sinh được ghi nhận chỉ ở mức 687.689 người, là mức thấp nhất được ghi nhận kể từ năm 1968 - trong khi số ca tử vong, ở mức gần 1,6 triệu, là mức cao nhất được ghi nhận. Dân số trong độ tuổi lao động, được định nghĩa là từ 15 đến 64, chỉ chiếm 59% dân số Nhật Bản vào năm ngoái - thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu là 65%, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Sự suy giảm này đã diễn ra trong nhiều thập kỷ, do tỷ lệ sinh thấp liên tục của Nhật Bản kể từ những năm 1970. Vì lý do này, các nhà xã hội học và nhân khẩu học cho rằng không có cách khắc phục nhanh chóng nào và điều này cũng không thể đảo ngược.
Ngay cả khi Nhật Bản có thể tăng tỷ lệ sinh một cách đáng kể và ngay lập tức một điều "nếu" rất lớn thì dân số nước này chắc chắn sẽ tiếp tục giảm trong ít nhất vài thập kỷ nữa cho đến khi tỷ lệ trẻ - già mất cân bằng trở lại, và những đứa trẻ được sinh ra giờ đây cũng đã đến tuổi sinh đẻ.
Cuộc khủng hoảng nhân khẩu học đã trở thành một trong những vấn đề cấp bách nhất của Nhật Bản, khi nhiều chính phủ không thể đảo ngược cú sốc kép là tỷ lệ sinh giảm và dân số già tăng. Số người chết nhiều hơn số người được sinh ra mỗi năm, khiến dân số giảm nhanh chóng - với những hậu quả sâu rộng đối với lực lượng lao động, nền kinh tế, hệ thống phúc lợi và cấu trúc xã hội của Nhật Bản.
Nhật Bản không phải là quốc gia duy nhất gặp phải vấn đề này. Các nước láng giềng Đông Á, bao gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc cũng đang đối mặt với những vấn đề tương tự, cũng như một số quốc gia châu Âu như Tây Ban Nha và Italy. Một ngày sau khi Nhật Bản công bố dữ liệu sơ bộ về dân số, Hàn Quốc cũng công bố số liệu riêng cho thấy tỷ lệ sinh của nước này - vốn thấp nhất thế giới - đã giảm một lần nữa.
Những hệ lụy đối với kinh tế, xã hội
Không giống như nhiều quốc gia, cuộc khủng hoảng của Nhật Bản đặc biệt ở chỗ nó đã diễn ra trong nhiều thập kỷ, nghĩa là tác động của nó đặc biệt rõ ràng ngay bây giờ, và sự giải cứu khó có thể đến trong tương lai gần. Vì vậy, bất kỳ con đường nào mà Nhật Bản chọn có thể sẽ cung cấp một lộ trình cho các quốc gia khác đang đối mặt với lãnh thổ chưa được khám phá, và một cái nhìn thoáng qua về tương lai tiềm năng của họ.
Tiến sĩ James Raymo, giáo sư xã hội học và nhân khẩu học tại Đại học Princeton, cho biết điều đầu tiên cần hiểu về cuộc khủng hoảng dân số của Nhật Bản là nó chỉ một phần là do hành vi. Ông cho biết, một phần lớn hơn của vấn đề liên quan đến lịch sử Nhật Bản và phương thức định hình cơ cấu dân số của nước này.
Để dân số duy trì ổn định, cần có tỷ lệ sinh là 2,1, được định nghĩa là tổng số lần sinh của một phụ nữ trong suốt cuộc đời. Tỷ lệ cao hơn sẽ chứng kiến dân số tăng trưởng, với tỷ lệ trẻ em và thanh thiếu niên lớn, như đã thấy ở Ấn Độ và nhiều quốc gia châu Phi. Nhưng tại Nhật Bản, "mức sinh đó đã ở dưới 2,1 trong 50 năm", Giáo sư Raymo nói. Tỷ lệ này đã giảm xuống dưới mức đó sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ toàn cầu năm 1973 đẩy các nền kinh tế vào suy thoái, và không bao giờ tăng trở lại.
Vấn đề thực sự là tỷ lệ sinh đã liên tục ở mức thấp trong một thời gian dài. Một quốc gia có thể phục hồi nếu tỷ lệ đó chỉ giảm trong vài năm - nhưng khi tỷ lệ này duy trì dưới 2,1 trong nhiều thập kỷ, bạn sẽ có một dân số có số người trẻ ít hơn rất nhiều so với số người lớn tuổi. Do tỷ lệ chênh lệch đó, tổng số trẻ em được sinh ra mỗi năm sẽ tiếp tục giảm - ngay cả khi phụ nữ bắt đầu sinh nhiều con hơn - bởi vì nhóm phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ vốn đã rất nhỏ và đang giảm dần mỗi năm.
Có nhiều lý do dẫn đến tỷ lệ sinh thấp ở Nhật Bản - nhưng vấn đề chính là người dân không kết hôn ngay từ đầu, Giáo sư Raymo nói.
Các chuyên gia chỉ ra rằng chi phí sinh hoạt cao, nền kinh tế và tiền lương trì trệ, không gian hạn chế và văn hóa làm việc khắt khe của Nhật Bản là những lý do khiến ít người lựa chọn hẹn hò hoặc kết hôn.
Theo một khảo sát năm 2022 của IPSS, "mức độ sẵn sàng lập gia đình… của người Nhật đã giảm đáng kể". Trong số những người trưởng thành độc thân chưa từng kết hôn, số người nói rằng họ có ý định kết hôn ít hơn so với những năm trước - trong khi nhiều người nói rằng họ sẽ không cô đơn ngay cả khi họ tiếp tục sống một mình. Khoảng một phần ba cho biết họ không muốn có một mối quan hệ.
Đối với phụ nữ, chi phí kinh tế không phải là lý do duy nhất khiến họ không muốn kết hôn. Nhật Bản vẫn là một xã hội gia trưởng cao độ, nơi phụ nữ đã kết hôn thường được kỳ vọng sẽ đảm nhận vai trò chăm sóc gia đình, bất chấp những nỗ lực của chính phủ nhằm khuyến khích chồng tham gia nhiều hơn. Vì tất cả những lý do này, nhiều người "mơ hồ về hôn nhân", trì hoãn việc này trong nhiều năm - "rồi đến năm 35 tuổi, 40 tuổi, họ lại rơi vào cảnh độc thân".
Tác động của cuộc khủng hoảng dân số là rất rõ ràng. Các ngành công nghiệp đang cảm thấy thiếu hụt lao động; việc làm khó tuyển dụng, với số lượng thanh niên tham gia lực lượng lao động ngày càng ít; một số cộng đồng nông thôn đang dần biến mất. Ngay cả ở các thành phố, mọi thứ cũng đang thay đổi - với nhiều công việc dịch vụ do những người nhập cư trẻ tuổi, hoặc sinh viên từ các quốc gia khác đảm nhiệm.
Gia đình Kentaro Yokobori. Ảnh: CNN.
Giải pháp đảo ngược tình thế
Kể từ năm 2023, các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã cảnh báo rằng "bây giờ hoặc không bao giờ" phải giải quyết tình trạng sinh đẻ giảm và dân số đang suy giảm - gần 8 năm sau khi người tiền nhiệm của ông cam kết "đối mặt trực diện với vấn đề nhân khẩu học". Từ đó, chính phủ Nhật đã thúc đẩy các sáng kiến khác nhau nhằm khuyến khích kết hôn và sinh con, chẳng hạn như tăng cường dịch vụ chăm sóc trẻ em hoặc cung cấp trợ cấp nhà ở. Một số thị trấn thậm chí còn trả tiền cho các cặp vợ chồng để sinh con.
Nhưng do sự suy giảm này dự kiến sẽ tiếp tục trong ít nhất vài thập kỷ, Nhật Bản có thể sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề đến hệ thống lương hưu và chăm sóc sức khỏe, cũng như các cơ sở hạ tầng xã hội khác vốn khó duy trì do lực lượng lao động ngày càng thu hẹp.
Điều đó không có nghĩa là Nhật Bản sẽ thất bại, Raymo khẳng định - tỷ lệ sinh có thể sẽ cân bằng vào một thời điểm nào đó, và đất nước sẽ điều chỉnh. Nhưng điều đó sẽ cần thời gian, Nhật Bản cần chuẩn bị cho "một chặng đường thực sự gập ghềnh để đạt được trạng thái cân bằng mới".
Có một vài cách mà chặng đường đó có thể diễn ra. Raymo cho biết chúng ta có thể thấy một "sự cơ giới hóa xã hội ồ ạt", nghĩa là lao động con người sẽ bị thay thế bởi máy móc. Khi dân số giảm, một số vấn đề như chi phí sinh hoạt cao hoặc tình trạng quá tải ở Tokyo có thể bắt đầu giảm bớt. Một giả thuyết cho rằng ít người hơn đồng nghĩa với việc ít cạnh tranh hơn cho những thứ như tuyển sinh đại học và việc làm.
Trước đây, Nhật Bản đã thất bại trong việc hội nhập các làn sóng lao động nước ngoài và thay vào đó, họ phải dựa vào các giải pháp tạm thời như tuyển dụng người nước ngoài theo thị thực du học. Cư dân nước ngoài và công dân Nhật Bản lai sắc tộc từ lâu đã phàn nàn về nạn bài ngoại, phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử.
Áp lực công ăn việc làm cũng là lý do khiến người trẻ không kết hôn và sinh con.
Tuy nhiên, Nhật Bản có thể không có lựa chọn nào khác. Một báo cáo của một tổ chức nghiên cứu có trụ sở tại Tokyo cho thấy Nhật Bản cần số lượng lao động nước ngoài gấp khoảng 4 lần vào năm 2040 để đạt được các mục tiêu kinh tế của chính phủ.
Các nhà chức trách đã thay đổi hướng đi này trong những năm gần đây, tạo ra các loại thị thực mới và xem xét các đề xuất cho phép một số loại lao động có tay nghề cao được ở lại vô thời hạn. Các mô hình của IPSS dự đoán rằng đến năm 2070, "tốc độ suy giảm dân số dự kiến sẽ chậm lại một chút, chủ yếu là do sự gia tăng di cư quốc tế". Và có những dấu hiệu cho thấy kế hoạch này có thể đang có hiệu lực; số lượng cư dân nước ngoài tại Nhật Bản đã tăng hơn 10% vào năm ngoái, đạt mức cao kỷ lục 3,6 triệu người.
An Châu