Nữ học sĩ Ngô Chi Lan vẫn được người dân nhớ tới và thờ phụng như một nhân thần. Ảnh: Họ Ngô Việt Nam.
Tuy nhiên, nữ sĩ Ngô Chi Lan lại nổi bật hơn bởi thiên phú văn chương.
Con nuôi của vợ chồng Nguyễn Trãi
Ngô Chi Lan, tự Quỳnh Hương, người làng Phù Lỗ (làng Kẻ Sọ), huyện Kim Hoa, trấn Kinh Bắc (nay là huyện Sóc Sơn, Hà Nội). Bà sinh khoảng giữa thế kỷ 15, nổi tiếng có tài thi phú. Bà là vợ của Đông các Đại học sĩ Phù Thúc Hoành, là cháu gái ruột của Quang Thục hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao - vợ thứ năm của vua Lê Thái Tông, mẹ vua Lê Thánh Tông.
“Lịch sử họ Ngô Việt Nam” của tác giả Ngô Đức Thắng cho biết, Ngô Chi Lan là con gái của Thanh Quốc công Ngô Khế - một công thần triều Lê. Ông là em trai Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, con Diên ý Dụ vương Ngô Từ và là cậu ruột của vua Lê Thánh Tông.
Vì có cô (bác) là Ngô Thị Ngọc Dao, lúc ấy là thứ phi của vua Lê Thái Tông nên khi còn nhỏ Ngô Chi Lan thường được theo cô vào cung Khánh Phương hầu hạ. Bấy giờ bà Nguyễn Thị Lộ, vợ thứ của quan Hành khiển Nguyễn Trãi, lấy chồng đã lâu mà không có con nên Ngô Chi Lan được bà Ngọc Dao giới thiệu cho vợ chồng Nguyễn Trãi nhận làm con nuôi, đổi tên là Nguyễn Hạ Huệ.
Học sĩ Ngô Chi Lan được xem là nữ thi sĩ đầu tiên của nền văn học Việt Nam. Ảnh minh họa: ITN.
Năm 1442, khi xảy ra thảm án Lệ Chi Viên, vợ chồng Nguyễn Trãi bị xử tử, Ngô Chi Lan liền cải dạng, đổi lại tên thật, trốn đi ở nhiều nơi, sau được bố trí trốn về làm con nuôi cho một gia đình ở huyện Kim Hoa. Sau này bà lấy Giáo thụ Phù Thúc Hoành, người làng Phù Xá, một bậc tài danh đang làm việc ở Viện Hàn lâm, dạy Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám.
Lê Thánh Tông lên ngôi, sau khi ban chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi thì bà mới dám trở về. Vua phong Ngô Chi Lan làm “Phù gia nữ học sĩ” để tiếp tục công việc của mẹ nuôi, dậy lễ nghi và văn thơ cho các cung nhân trong triều.
Ngô Chi Lan nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông hiểu âm nhạc và viết chữ đẹp. Chính vì vậy mà bà được vua Lê Thánh Tông ban hiệu là “Kim Hoa nữ học sĩ”, cho dự nhiều cuộc xướng họa thơ văn. Tuy là phụ nữ lại không phải là thành viên Tao đàn Nhị thập bát tú, nhưng vì thơ văn nức tiếng nên được nhà vua là Tao đàn Nguyên súy ưa chuộng.
Ngô Chi Lan thường được dự các buổi bình thơ, được ưu ái ngâm các tác phẩm mới sáng tác. Mỗi khi nhà vua đi du ngoạn, hoặc dự yến tiệc ở bất cứ nơi đâu, học sĩ Ngô Chi Lan đều phải mang nghiên bút theo hầu. Vì có biệt tài sáng tác, xuất khẩu thành thơ, nên khi phóng bút, ít khi bà phải sửa chữa, dù chỉ là một câu, một chữ.
Tương truyền, một lần nhà vua đi dạo, dừng chân thưởng ngoạn tại Thanh Dương Môn, chợt thấy làn mây biếc la đà trên mái điện bèn sai quan thị họ Nguyễn làm từ vịnh cảnh. Khi từ khúc “Uyên ương” dâng lên, nhà vua không vừa ý và truyền ngay nữ học sĩ họ Ngô làm bài khác. Ngô Chi Lan vâng mệnh rồi thảo luôn một chương tuyệt phẩm, trong đó hai câu kết: “Điện ngọc ngói mời mây biếc phủ/ Cẩm Giang sóng lụa sắc hồng dâng”.
Nghe xong, nhà vua lấy làm đắc ý, khen tài văn hay chữ tốt của nữ học sĩ, thưởng cho năm đĩnh vàng. Một buổi tối, bà được Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao cho tháp tùng du ngoạn trên núi Vệ Linh (núi Sóc, thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn ngày nay).
Dạt dào trước sự tích đức Thánh Gióng, đệ nhị Tứ bất tử trên thần điện của người Việt, nữ sĩ cảm tác nên bài tứ tuyệt: “Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn/ Muôn tía nghìn hồng đẹp thế gian/ Ngựa sắt lên trời tên rạng sử/ Anh hùng còn mãi với giang san”.
Bài thơ ra đời, ngay lập tức không những mọi người ở trong nội cung đều biết, mà còn lan truyền ra cả ngoài phố thị, ai cũng ca ngợi và xếp vào hạng tuyệt tác. Nhà vua cũng ngỏ lời khen bà và ban tặng một cặp áo gấm màu lục, ngoài có phủ áo sa mỏng màu thiên thanh. Bài thơ đó, đến ngày nay vẫn được lưu giữ trong đền Sóc.
Cổng đền thờ nữ sĩ Ngô Chi Lan bên xóm Tiên, xã Nguyên Khê (Đông Anh, Hà Nội). Ảnh: Họ Ngô Việt Nam.
Tài năng trác tuyệt khiến thiên hạ ghen tức
Tên tuổi Phù gia nữ học sĩ Ngô Chi Lan ngày càng tỏa sáng, tiếng tăm ngày càng vang xa, khiến tao nhân mặc khách thời đó vô cùng kính nể. Bên cạnh đó, do có biệt tài lại được nhà vua ưu ái nên không tránh khỏi bị một số kẻ tiểu nhân ghen ghét, xúc xiểm, đặt thơ giễu cợt mỉa mai, nhằm hạ bệ phẩm giá của bà, như: “Quân vương ví phỏng cần tiêu muộn/ Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào”; hoặc: “Tan tiệc lầu rồng thơ mệt tứ/ Sáu canh chầu chực giấc nồng trưa”. Lại có câu tương tự: “Lầu rồng, thơ cạn, tiệc tàn/ Năm canh bảnh mắt còn khan giấc nồng”.
Cũng từ những câu thơ mỉa mai ấy mà một số thuyết trong dân gian cho rằng, Ngô Chi Lan là người đàn bà bí mật của vua Lê Thánh Tông, chứ không đơn thuần chỉ quan hệ vua - thần. Tuy nhiên, sự thật là mặc dù Ngô Chi Lan và vua rất thân thiết, nhưng bà chưa từng trở thành phi tử của vua, họ chỉ dừng ở tình bằng hữu thi ca và tình anh - em họ mạc.
Buổi ấy, vợ chồng bà kết giao với nhiều bạn thơ ở chốn kinh kỳ và thường tổ chức những buổi gặp gỡ bình luận văn chương. Tuy nhiên do danh tiếng của Ngô Chi Lan vang xa, mà Phù Thúc Hoành vốn xuất thân hàn vi, không đỗ đạt nên có người làm câu thơ có ý mỉa mai hai người rằng: “Ông tơ lắm nỗi đa đoan/ Xe tơ lại khéo vơ quàng, vơ xiên”.
Họ than rằng đẹp người, đẹp nết như Ngô Chi Lan mà qua mai mối lại lấy phải anh chồng quê mùa, dốt nát tên là Phù Thúc Hoành, người làng Phù Xá cùng huyện. Mặc cho miệng lưỡi thiên hạ, Ngô Chi Lan không bận tâm mà vẫn một lòng yêu thương chồng, làm hết phận sự của một người vợ.
Những vần thơ vô danh đó thực chất là có ý châm chọc, khích bác, chia rẽ, khiến nữ sĩ Ngô Chi Lan vô cùng buồn rầu. Sử liệu có viết, có lúc bà mượn giấc mộng để thổ lộ tâm tư tình cảm của mình với mọi người trong cung nội: “Bấy nay tôi chầu hầu Thuận đế, thi phụng tôn vương. Nghĩa cả là vua tôi, song vẫn còn tình thâm đồng tộc, lại vốn Ngô gia phép tắc; Phù gia trọng đạo… Thế mà lẽ nào trong giới thi văn lại có hạng đơn bạc, đặt giọng quàng xiên, tệ hại cho đành?”.
Danh sĩ Thái Thuận lúc đó là Phó súy Hội Tao đàn khuyên giải bà: “Nào phải một mình phu nhân mới bị khốn vì ngòi bút trào lộng của những kẻ xú ác… mà các bậc trinh liệt xưa nay đã thường bị những lời thơ khinh bạc trây bẩn, song nước Ngân Hà dễ gì khuấy cho nhơ, nên nữ học sĩ cũng chẳng cần bận tâm làm gì”.
Tuy nhiên, chuyện đồn thổi thị phi về vợ và vua Lê Thánh Tông cũng đến tai Phù Thúc Hoành. Thấy Ngô Chi Lan bận việc trong cung lâu không về, ông tuy không tin những gì mà người ta nói nhưng cũng có chút ghen tuông và cũng lại dấy lên nỗi nhớ vợ da diết.
Từ nhà, ông gửi thơ cho vợ với tiêu đề “Ý xưa”: “Hà diệp lục như cái/ Hà hoa hồng tử nhan./ Trướng quân vị đắc kiến/ Trì thương không bàn hoàn” (nghĩa là: Lá sen xanh như chiếc tán/ Hoa sen hồng tựa má đào./ Nhớ người mà chưa được gặp/ Ngẩn ngơ thơ thẩn bên ao).
Nhận được thơ của chồng, Ngô Chi Lan làm liền bốn bài tứ: Xuân, Hạ, Thu, Đông để hồi đáp. Trong đó bài Hạ (mùa Hạ) được cho là hay nhất: “Gió rụng hoa lựu tơi bời/ Trên du tha thướt dáng người giai nhân./ Oanh vàng ủ rũ thương xuân/ Én đôi tiếc cảnh tần ngần trên cây./ Đừng làm rủ thấp đôi mày/ Nương song hồn mộng xa bay cuối trời./ Cuối rèm ai cứ gọi hoài/ Để hồn em chẳng được bay tới chàng”.
Miếu Nhà Bà (đền thờ Kim Hoa nữ sĩ Ngô Chi Lan) tại xã Phù Lỗ (Sóc Sơn, Hà Nội). Ảnh: Họ Ngô Việt Nam.
Được dân lập đền thờ tưởng nhớ
Khi vua Lê Thánh Tông băng hà, nhân ngày lễ đại hành (lễ đặt thụy hiệu), nữ học sĩ cảm kích khóc điếu tiên hoàng bằng bài thơ nổi tiếng: “Ba chục năm dư ngự điện vàng/ Chín châu bốn bể gội ân quang/ Đông Tây mở đất miền cương giới/ Sự nghiệp ngang trời mệnh đế vương/ Tuyết phủ xe tiên mờ mịt bóng/ Hoa chờ vườn ngự bẽ bàng hương/ Quán triều canh vắng còn thơ mộng/ Sầu ngắm Kiều sơn lệ mấy hàng”.
Theo sử dòng họ Ngô, về sau Ngô Chi Lan về nghỉ và mất ở Phù Lỗ - quê hương Phù Thúc Hoành chồng bà. Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ nữ học sĩ, sau khi bà mất, nhân dân Phù Lỗ đã dựng đền thờ ngay trên nền nhà ở ngày xưa của gia đình nữ sĩ (nay thuộc thôn Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn), gọi với tên dân gian là “Miếu Nhà Bà”.
Thông tin từ gia tộc họ Ngô cũng cho biết, đền thờ đã qua mấy lần trùng tu, phục dựng, hiện nay là một ngôi nhà 3 gian thấp nhỏ, nằm khiêm tốn gần ngôi đình làng. Phía trước đền có một tấm bia đá cổ, được dựng từ rất lâu đời nên các nét chữ khắc đã bị bào mòn, không chữ nào còn rõ.
Mộ bà đặt ở cánh bãi Tây Nguyên, bên kia sông Cà Lồ, cách Miếu Nhà Bà khoảng 1 cây số, thuộc xóm Tiên, xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh. Trước đây khu này thuộc địa phận làng Phù Lỗ, nhưng sau này do phân định lại địa giới hành chính, lấy sông Cà Lồ làm mốc giới, bên này sông là huyện Sóc Sơn, bên kia sông là huyện Đông Anh cho nên khu đất này nay thuộc Đông Anh.
Cạnh mộ bà, người dân cũng dựng một ngôi miếu nhỏ để thờ. Trải qua năm tháng, ngôi miếu được sửa sang nhiều lần, sau lại cho tu sửa lăng mộ, nâng cấp ngôi miếu thành đền thờ.
Người địa phương lấy ngày 17 tháng 9 âm lịch làm ngày giỗ nữ học sĩ Ngô Chi Lan. Hàng năm, đến dịp này nhân dân trong vùng lại kỷ niệm ngày giỗ bà, tổ chức lễ hội rất trang trọng. Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày, từ 15 tới 17 tháng 9, khách thập phương về dự rất đông.
Sinh thời nữ học sĩ Ngô Chi Lan sáng tác rất nhiều thơ, phần ứng khẩu, phần phóng bút… nhưng vì đa số do không được gom lại thành tập, nên sớm bị thất lạc. Bà có tập thơ duy nhất là tập thơ chữ Hán có nhan đề “Mai trang tập” (Tập thơ vườn mai), nhưng rất tiếc sau cũng đã thất truyền.
Hiện, thơ bà chỉ còn lại trên dưới mười bài in rải rác trong một số sách văn học sử, trong đó có: Chùm thơ vịnh bốn mùa gồm 4 bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ Hán; Chùm thơ vịnh bốn mùa với 4 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Nôm (dịch Nôm 4 đoạn đầu của 4 bài thơ chữ Hán trên); Vịnh núi Vệ Linh viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt; Thái liên khúc (Khúc hát hái sen) gồm 2 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán; Thơ vịnh truyện Tô Vũ viết bằng chữ Nôm, và bài Thơ điếu vua Lê Thánh Tông viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú.
Thiên truyền kỳ “Kim Hoa thi thoại” (cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa) trong “Truyền kỳ mạn lục”, Nguyễn Dữ đã dựng lên câu chuyện thơ giữa Ngô Chi Lan và nhà thơ Thái Thuận (Phó nguyên súy Tao đàn Nhị thập bát tú), để qua đó giới thiệu mấy vần thơ hay của Ngô Chi Lan, luận về văn chương và các tác giả nổi tiếng đương thời, như: Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn Trãi... Chuyện tuy hư cấu hoang đường, song chứng tỏ vị trí của nữ học sĩ Ngô Chi Lan trong văn học và lòng thành kính của hậu thế đối với bà.
Thơ của Ngô Chi Lan được các nhà phê bình văn học nhận xét mang bản sắc riêng, không khuôn sáo gò ép, đẹp cả ý và lời, thường kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cảnh vật với những chi tiết chân thực của đời sống và có cái nhìn nhân ái trước cuộc đời và con người. Bà là một tài thơ của nửa sau thế kỉ 15, được người đương thời đánh giá cao. Có thể coi Ngô Chi Lan là nhà thơ nữ đầu tiên của Việt Nam, có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển thơ ca của đất nước.
Trong “Kim Hoa thi thoại” của Nguyễn Dữ thì “năm ngoài 40 tuổi nàng (tức Ngô Chi Lan) mất, táng ở cánh bãi Tây Nguyên”. Sau này, GS Trịnh Vân Thanh lại có ghi chú rằng, nữ sĩ Ngô Chi Lan mất năm 41 tuổi, còn Ngô Văn Học ghi bà mất khi tuổi ngoài 50. Xét các sự kiện xảy ra trong lịch sử ghi trong sử liệu, vua Lê Thánh Tông mất ở tuổi 55. Cho nên nếu nữ sĩ Ngô Chi Lan sinh trước vị vua này và bài thơ “Điếu vua Lê Thánh Tông” cũng đúng là của bà (tức bà mất sau vua Lê), thì việc xác định bà qua đời ở tuổi ngoài 50 là hợp lý và khớp với các dữ liệu lịch sử.
Trần Hòa