Bức tranh di sản văn hóa đa sắc màu
Hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của Quảng Ngãi được bảo tồn và lưu truyền từ đời này sang đời khác, thông qua nhiều loại hình, tạo nên một bức tranh di sản văn hóa đa sắc màu. Toàn tỉnh hiện có 236 di tích được xếp hạng, trong đó có 4 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 38 di tích cấp quốc gia và 174 di tích cấp tỉnh.
Bên cạnh đó, Quảng Ngãi còn sở hữu nhiều di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc. Trong đó, nổi bật là văn hóa cồng chiêng; hệ thống nghi lễ, lễ hội truyền thống phong phú, độc đáo của các dân tộc thiểu số, từ hệ thống nghi lễ, lễ hội liên quan vòng đời con người, vòng đời cây lúa đến hệ thống nghi lễ, lễ hội liên quan đến cộng đồng; dân ca, dân vũ, dân nhạc, nhạc cụ truyền thống.
Đặc biệt, tỉnh có 2 di sản được UNESCO ghi danh là Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên và Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ Việt Nam; 19 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Gia đình anh A Long, dân tộc Xơ Đăng, ở xã Đăk Kôi gìn giữ nghề dệt truyền thống. Ảnh: QUANG VINH
Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Phan Văn Hoàng cho biết, các cấp ủy, chính quyền luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Qua đó, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo và bước đầu phát huy hiệu quả. Các di sản văn hóa được nhận diện giá trị, bảo tồn và phát huy, góp phần không nhỏ vào việc giáo dục lịch sử, vun đắp truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Người dân là chủ thể
Thực tế cho thấy, việc bảo tồn di sản văn hóa, trước hết phải do chính người dân thực hiện. Chỉ có người dân mới có thể bảo tồn, gìn giữ, kế thừa và phát huy giá trị di sản văn hóa một cách thiết thực và hiệu quả.
Như ở thôn Kon Du, xã Măng Đen, Nghệ nhân Ưu tú (NNƯT) A Gông (46 tuổi) đã miệt mài gìn giữ nghề tạc tượng gỗ của người Mơ Nâm (một nhánh của dân tộc Xơ Đăng) suốt nhiều năm qua. Học tạc tượng gỗ từ năm 20 tuổi, anh A Gông không nhớ hết mình đã tạc bao nhiêu bức tượng, chỉ thấy vui khi đã góp phần giữ lại nghề truyền thống của cha ông mình. Năm 2019, anh A Gông được phong tặng danh hiệu NNƯT.
"Phần lớn các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn tỉnh phân bố rải rác ở vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn, khiến việc đầu tư, bảo tồn và phát huy giá trị gặp nhiều trở ngại. Có một số đề án, kế hoạch bảo tồn di sản vẫn chưa thể triển khai do vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục pháp lý, cũng như sự thiếu hụt nhân lực chuyên môn tại địa phương. Thực trạng này đòi hỏi cần có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả hơn trong thời gian tới để bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hóa của dân tộc”.
Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Phan Văn Hoàng
“Tượng gỗ của người Mơ Nâm gắn với sinh hoạt hằng ngày như đi rẫy, săn bắt, giã gạo, đánh chiêng... và chủ yếu phục vụ lễ hội như mở kho lúa, mở chuồng trâu. Trong lễ, người dân thường cầm một tượng nhỏ, nhảy múa quanh nhà sàn theo tiếng chiêng.
Sáng hôm sau, tượng được đặt trước chuồng trâu hoặc kho lúa, người dân gieo vài hạt lúa quanh tượng để cầu mùa màng tốt tươi”, anh A Gông cho biết.
Ở thôn Kon Xơ Mluh, xã Kon Braih, NNƯT Y Ber (75 tuổi), đã gắn bó với nghề làm gốm truyền thống của người Jơ Lâng (một nhánh của dân tộc Ba Na) suốt 50 năm qua. Bà Y Ber học nghề từ mẹ khi 12 tuổi và thành thạo vào năm 18.
Để làm gốm, bà phải đi lấy đất sét ngoài suối, đem về phơi khô rồi giã thật mịn rồi nặn bằng tay. Nặn xong đem phơi khô, mài nhẵn, hơ lửa rồi nung. Cuối cùng quét nước rễ cây t’nưng để tạo màu đen bóng và tăng độ bền.
Đến với thôn Làng Giữa, xã Minh Long, chúng tôi được nghe những làn điệu ta lêu, ca choi mộc mạc của nghệ nhân Đinh Thị Phúc (46 tuổi). Từ nhỏ, chị Phúc đã nghe bà và mẹ hát ta lêu, ca choi mỗi mùa đi rẫy hay trong các đêm sinh hoạt cộng đồng. Những giai điệu ấy nuôi dưỡng tình yêu văn hóa Hrê trong chị lớn dần theo năm tháng.
Không chỉ trình diễn thành thục, chị còn sáng tác nhiều bài mới phù hợp đời sống hôm nay. Điều đáng quý là chị Phúc truyền dạy thế hệ trẻ trong thôn biết hát làn điệu dân ca dân tộc mình và tự tin biểu diễn trong các lễ hội ở địa phương.
Anh Đinh Văn Rít, thôn Làng Giữa, xã Minh Long (bên trái) đánh chiêng Ba cùng các nghệ nhân lớn tuổi trong làng. Ảnh: K.NGÂN
Cũng ở thôn Làng Giữa, ngôi nhà sàn nhỏ của anh Đinh Văn Rít (36 tuổi) là điểm hẹn văn hóa của thôn. Sinh ra trong gia đình có truyền thống văn hóa, từ nhỏ anh Rít đã nghe tiếng chiêng, tiếng đàn.
Khi trưởng thành, anh Rít nhận thấy cuộc sống hiện đại đã làm nhiều nhạc cụ truyền thống bị lãng quên, nên bắt đầu sưu tầm và bảo tồn các bộ chiêng quý cùng các loại đàn truyền thống.
Anh Rít là một trong số ít thanh niên ở địa phương am hiểu và đánh thuần thục chiêng Ba - di sản văn hóa phi vật thể quốc gia của dân tộc Hrê. Nhờ nỗ lực của anh Rít, tiếng chiêng Ba luôn ngân vang trong các buổi sinh hoạt văn hóa, lễ hội ở thôn Làng Giữa.
Bảo tồn và phát huy di sản
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay là sự thiếu cân đối giữa việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa.
Nguồn lực đầu tư tu bổ di tích chủ yếu tập trung vào một số di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt hoặc một số ít di tích cấp tỉnh. Còn rất nhiều di tích khác chưa được quan tâm đúng mức hoặc đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.
Liên hoan cồng chiêng, xoang, thi trang phục thổ cẩm dành cho học sinh dân tộc thiểu số năm 2022, do ngành giáo dục TP.Kon Tum (cũ) tổ chức. Ảnh: Y ĐÔ
Một số di tích đã được trùng tu, tôn tạo, thì chưa được khai thác hiệu quả để phục vụ phát triển du lịch. Theo Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Phan Văn Hoàng, trước hết là do hạ tầng du lịch tại các khu vực có di tích văn hóa vẫn còn hạn chế, chưa đủ sức hút để thu hút và giữ chân du khách. Sự kết nối giữa các điểm di sản văn hóa thành tuyến du lịch liên hoàn chưa cao, khiến trải nghiệm của du khách bị rời rạc.
Công tác quản lý và hoạt động bảo quản, tu bổ phục hồi di tích ở một số địa phương chưa chặt chẽ, việc triển khai dự án tu bổ di tích một vài nơi còn chậm. Có di tích được đầu tư phục dựng, nhưng nhanh xuống cấp do thiếu kinh phí bảo tồn, tu bổ. Đơn cử là Khu bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa thôn Làng Teng, xã Ba Động.
Được được đầu tư hơn 10,5 tỷ đồng để phục dựng các công trình truyền thống của dân tộc Hrê như nhà sàn, chòi lúa, chuồng trâu... nhưng sau khi bàn giao cho địa phương quản lý vào năm 2018, đến nay đã xuống cấp nghiêm trọng.
Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Phan Văn Hoàng cho rằng, cần xác định bảo tồn di sản văn hóa không chỉ là nhiệm vụ của cơ quan quản lý, mà cần có sự chung tay của toàn xã hội, từ chính quyền các cấp đến người dân địa phương.
Đối với ngành VH-TT&DL, thời gian tới, sẽ chú trọng tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ bảo tồn, truyền dạy về di sản văn hóa. Khơi dậy và phát huy vai trò của nghệ nhân, già làng, người uy tín trong cộng đồng để giữ gìn, truyền dạy và lan tỏa các giá trị văn hóa truyền thống, ngăn chặn nguy cơ mai một, biến dạng hoặc thất truyền di sản.
Gắn kết giữa di sản văn hóa, cảnh quan thiên nhiên với bản sắc các dân tộc thiểu số để tạo nên sản phẩm du lịch đặc trưng. Đây là nền tảng quan trọng góp phần định vị Quảng Ngãi như một điểm đến văn hóa giàu bản sắc trên bản đồ du lịch Việt Nam.
T.ÂN - K.NGÂN - Y ĐÔ