'Giọt vàng' giữa lưng chừng trời giữa trời

'Giọt vàng' giữa lưng chừng trời giữa trời
18 giờ trướcBài gốc
Ông Lê Văn Hóa trong vườn trồng cây sở của mình -Ảnh: Đ.T
Đặc sản một thời vang bóng
Lâu lâu có dịp ngược lên đầu nguồn sông Hiếu, tôi vẫn thường tìm đến làng An Thái, xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, thăm thầy giáo Lê Ngọc Cương, người thầy dạy Văn khả kính của tôi từ lớp chuyên Văn huyện Bến Hải (cũ) những năm 80 của thế kỷ trước.
Trong miên man chuyện đất, chuyện người, câu chuyện tự nhiên “neo” lại quanh những cây sở còn ẩn nhẫn nơi góc vườn nhà thầy, quả đang độ vào chắc, từ màu xanh chuyển sang màu vàng xám, trĩu cành. Thầy Cương kể rằng, chưa biết rõ cây sở du nhập vào vùng đất này từ khi nào, nhưng làng An Thái xưa nay đã nổi tiếng với nghề ép dầu sở.
Dưới thời phong kiến, cây sở được dân làng trồng khắp nơi, từ trong vườn nhà rồi lan ra, bao phủ nhiều vùng gò đồi. Chính quyền lúc bấy giờ thường phân cho trai đinh trong làng mỗi người một sào, ngăn cách giữa các phần đất là những hàng chè để làm ranh giới. Đến mùa thu hoạch có ấn định ngày dân làng dâng lễ vật làm lễ “khai vườn” và sau hiệu lệnh bằng ba hồi thanh la mới được tiến hành thu hoạch quả sở.
Thường trước lúc hái quả sở phải phát quang và làm sạch cỏ để dễ dàng thu nhặt quả chín khi rụng xuống đất. Theo kinh nghiệm dân gian, thường những quả thu lượm sẽ cho nhiều dầu hơn những quả hái trực tiếp từ trên cây, vì chín đều, cơm dày nên lượng dầu cao.
Trong ký ức của tôi, mỗi năm đến cữ tháng 11 âm lịch, cây sở bắt đầu ra hoa và quả chín vào tháng 8 - 9 năm sau. Hoa sở trắng, một màu trắng lạnh và xa vắng làm bâng khuâng cả một cánh đồi. Ở đâu đó có nhiều cây sở nữa thì tôi chưa biết, nhưng quê tôi từ rất lâu đời đã được xem là “chốn quần cư” của loài cây có hoa trắng đến nao lòng kia rồi. Cây sở được người dân Cam Lộ du nhập về trồng ngót hàng trăm năm trước.
Thuở ấy, cuộc sống của người dân chỉ quẩn quanh sau lũy tre làng. Đến tiếng gà gáy trưa cũng chỉ đủ sức xao xác nơi ngõ nhà rợp xanh tre trúc. Những bữa cơm đạm bạc gạo đỏ tháng mười dọn vội giữa nền nhà đặc quánh mùi đất, thể nào cũng có bát canh rau nước xanh nổi những váng dầu vàng nhạt.
Dầu sở nêm một thìa vào nồi canh rau, rau như xanh hơn, nuột nà, bát canh trở nên ngọt lịm, thơm như bát mật đầu mùa. Cá đồng, cá sông cất được nơi thượng nguồn Cam Lộ um trong nồi đất, thêm tí dầu sở, thân cá giòn, cong lại, lớp vảy dựng ngược, xôm xốp. Dầu thấm vào lườn cá vàng ươm. Dầu ăn ép từ hạt cây sở béo, thơm mà không gây cảm giác chán ngấy như mỡ lợn hoặc mỡ các loại động vật khác.
Dầu sở trong tựa dầu lạc nhưng màu vàng như thắm hơn, chất dầu như thuần khiết hơn bởi qua nhiều sự tinh lọc đa công và cẩn trọng. Dầu sở đã ăn đời ở kiếp với người dân quê tôi qua bao năm tháng gian lao và dự phần vào những bước thăng trầm của một làng quê nghèo...
Sản phẩm dầu sở -Ảnh: Đ.T
Bây giờ trên những triền đồi miệt làng An Thái, những hàng cây sở còn lại vẫn đan xen vào nhau, trầm mặc tự dệt nên một màu xanh cho riêng mình. Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, nhiều người dân trong vùng đã dần quên thói quen dùng dầu sở.
Những loại dầu ăn công nghiệp được quảng cáo rầm rộ, kiểu dáng bắt mắt, tiện lợi xuất hiện ngày càng nhiều trong từng bếp ăn gia đình. Giọt dầu sở sóng sánh, thơm nức không còn đủ sức gợi một niềm nhớ nhung nào nữa đối với nhiều người. Chỉ còn chăng là cứ đến mùa, hoa sở mặc nhiên nở bung trắng cả triền đồi. Màu hoa lạnh và xa vắng như hàng trăm năm trước.
Giữ nghề như giữ một ký ức đẹp của làng
Tôi hỏi thầy Cương: “Thưa thầy, hiện còn gia đình nào trong làng giữ được nghề trồng và ép dầu sở?”. Với sự cẩn trọng của một nhà giáo, thầy Cương lấy giấy bút, viết lại theo trí nhớ, mấy bận gạch xóa rồi khoanh tròn, đưa cho tôi một “danh sách trích ngang” những người mà như thầy nói, họ đã giữ nghề trồng và ép dầu sở như giữ một ký ức đẹp, đằm sâu, vang bóng của làng.
Theo lời chỉ dẫn của thầy Cương, tôi đến nhà ông Lê Văn Hóa ở thôn An Thái. Nhà nằm giữa một khu vườn rộng, kế bên là mảnh đồi bao phủ bởi bạt ngàn cây sở. Những năm qua, vợ chồng ông Hóa là một trong những gia đình còn giữ được nghề trồng và ép dầu sở. Mặc dù còn bận rộn việc nương vườn, nhưng khi nghe tôi muốn tìm hiểu đôi điều về cây sở, như chạm vào điều tâm đắc, ông Hóa kéo tôi ngồi bên hàng hiên trò chuyện.
“Đối với người dân địa phương, sở là cây trồng chủ yếu để lấy hạt ép dầu. Dầu sở dùng làm dầu ăn. Giá trị của dầu sở đã được chứng minh qua hàng trăm năm, từ thực tiễn cuộc sống chứ không cần qua cách quảng cáo, “pi - a” nào hết. Bánh (phụ phẩm) sau khi ép dầu thì dùng để đánh bắt cá, hoặc làm phân bón rất tốt. Gỗ sở cứng, bền, thích hợp để làm nông cụ, đồ dùng gia đình. Trên vùng gò đồi mà trồng được cây sở ken dày làm cây phòng hộ thì làng sẽ được bảo vệ an toàn trước mưa gió, bão tố, sụt đất, mất đồng...”, ông Hóa mở đầu câu chuyện.
Ông Hóa dẫn tôi ra tận nơi trồng cây sở rộng ngót 2.500 m2 kế bên vườn nhà. Ông cho biết cây sở trồng từ 5 - 6 năm thì ra hoa, kết quả. Quả sở có thể hái trên cây nhưng cũng có thể nhặt khi đã rụng xuống đất.
Quả sở về đem hong ở nơi thoáng gió 4 - 5 ngày thì quả sẽ tự tách để hạt rơi ra ngoài, cũng có thể phơi quả dưới nắng nhẹ để quả chóng tách hạt, đây là nguyên liệu chính để tiến hành ép dầu. Hiện nay, hạt sở được cho vào máy xay xát. Bột sở sẽ được hong chín, sau đó cho vào bao gai hay bao vải thô bó tròn thành từng bánh và bỏ vào bôộng ép.
Gia đình ông Lê Văn Hóa còn giữ được bôộng ép dầu sở làm bằng gỗ -Ảnh: Đ.T
Ông Hóa rất tự hào khi gia đình mình vẫn còn giữ được bôộng ép dầu được làm bằng gỗ và chỉ cho tôi xem với sự tâm đắc hiện rõ trên nét mặt. Cách ép dầu thủ công khá đơn giản. Người ta cho bánh dầu vào giữa hai bàn ép, lắp phần côông vào sau đó cho 2 chốt nêm vào hai phía của rãnh côông, lấy vồ đóng xuống rồi chêm 2 cái tiếp theo, càng chêm chặt bao nhiêu thì lực ép vào bánh dầu càng lớn, dầu sẽ chảy qua đường rãnh vào dụng cụ chứa.
Ép cho đến khi lượng dầu ở bánh không còn nữa mới tháo nêm và côông để lấy bánh dầu ra khỏi bôộng, sau đó tiếp tục ép bánh khác. Theo ông Hóa, thường 1 thúng hạt sở (tương đương 15 kg) thì làm được 3 bánh, ép 3 lần cho ra tầm 3 lít dầu sở. Tùy từng loại giống cây sở mà tỉ lệ hàm lượng dầu trong hạt biến động từ 18% - 26%.
Một mùa, trung bình ông thu được từ vườn cây sở nhà mình 50 thúng hạt sở, ép được khoảng 150 lít dầu. Một lít hiện ông bán ra với giá 300.000 đồng. Đây là sản phẩm “sạch từ gốc đến ngọn”, rất tốt cho sức khỏe người dùng nên cung không đủ cầu.
Giành lại thế mạnh từ cây sở
Còn nhớ hồi làm phóng viên chuyên viết mảng nông nghiệp, tôi đã từng đi theo đoàn công tác của ông Nguyễn Công Tạn, thời điểm đó là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT trong một lần đến thăm và làm việc tại Quảng Trị đã có chuyến khảo sát diện tích cây sở còn lại ở Cam Lộ. Sau chuyến khảo sát, ông Tạn và các chuyên gia đã khuyến cáo địa phương cũng như người dân quan tâm đến loại cây trồng có giá trị này. Sau đó, ngành chức năng của tỉnh đã tiến hành ươm 2,8 vạn cây giống sở địa phương và giống sở cành mềm Trung Quốc (hàm lượng dầu trong hạt đạt tới 40%) để trồng tại một số nơi trong tỉnh.
Hơn 25 năm qua rồi, do không có nhiều thông tin nên tôi không biết diện tích trồng sở thời bấy giờ đã phát triển như thế nào, số phận những cây sở được ươm trồng bây giờ ra sao... Chỉ biết, khi nhắc đến cây sở, dầu sở, sự xa vắng hầu như nhuốm cũ trong từng câu chuyện, sự nhắc nhớ cứ giăng mắc như khi ta gợi đến một kỷ niệm đẹp thời quá vãng...
Cây sở đem lại nhiều lợi ích trong cuộc sống con người. Điều đó đã rõ. Nhưng qua bao nhiêu năm lãng quên, bây giờ đã là lúc phải khai thác triệt để thế mạnh từ cây sở để làm nên những câu chuyện lớn hơn, mới mẽ hơn. Đưa dầu sở từ trong từng chái bếp, trong từng nếp nhà ra với thị trường, biến “giọt vàng” giữa lưng chừng trời thành loại dầu ăn sạch, chất lượng cao, tạo sự “tin cậy vàng” trong sự lựa chọn của người tiêu dùng. Không thể khác.
Tôi hỏi bạn tôi - người có kinh nghiệm trong xây dựng thương hiệu các mặt hàng nông sản: “Có thể xây dựng dầu sở thành sản phẩm OCOP được không?”.
Bạn tôi trả lời: “Rất khó, phải qua nhiều quy trình kèm theo một kế hoạch căn cơ, đồng bộ, khả thi, cần nhiều kinh phí, thời gian và...”.
-Và gì nữa?
- Quan trọng nhất vẫn là sự tâm huyết với một sản phẩm đặc sản danh tiếng của quê hương mình. Nếu có quyết tâm, đồng sức, đồng lòng, nhất định một ngày không xa, dầu sở An Thái- Cam Lộ sẽ có chỗ đứng trên thị trường...
... Chiều cuối năm, tôi đi qua những vùng gò đồi rộng lớn trên quê hương mình. Nhìn vào đâu cũng thấy ấm áp một niềm hy vọng nảy mầm từ trong gian khó mà nên vóc, nên hài. Những loài cây gần gũi, chân mộc ở quê tôi như an xoa, cà gai leo, thìa canh, tía tô, chè vằng... nay đã trở thành những mặt hàng cao dược liệu nổi tiếng, đến với người tiêu dùng khắp năm châu bốn bể; những bãi biền cây lạc hút tắp chân mây nơi đầu nguồn sông Hiếu đã làm nên mặt hàng dầu lạc Cam Lộ trứ danh, được người tiêu dùng trong Nam, ngoài Bắc đặt mua... Vậy thì đến bao giờ dầu sở An Thái - Cam Lộ sẽ là sản phẩm OCOP?
Hỏi là để hy vọng.
Hy vọng hàm chứa cả nỗ lực, quyết tâm và cả thách thức trong đó!
Đào Tâm Thanh
Nguồn Quảng Trị : http://www.baoquangtri.vn/giot-vang-giua-lung-chung-troi-giua-troi-191395.htm