Tắc xình là điệu múa truyền thống của đồng bào dân tộc Sán Chay. Trong ảnh: Người dân xóm Đồng Tâm, xã Vô Tranh biểu diễn múa Tắc Xình trong lễ hội cầu mùa. Ảnh T.L
“Vườn hoa văn hóa” đa sắc màu
Tỉnh Thái Nguyên hiện có gần 1,8 triệu người, với nhiều dân tộc cùng sinh sống tại 92 xã, phường. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, song đồng bào các dân tộc vẫn bền bỉ gìn giữ, duy trì và trao truyền những phong tục, tập quán văn hóa đặc sắc của cộng đồng mình.
Chính điều đó đã tạo nên sự đa dạng, phong phú trong hệ giá trị văn hóa, góp phần khẳng định bản sắc riêng có của Thái Nguyên. Có thể hình dung nơi đây như một “vườn hoa văn hóa” rực rỡ sắc màu, trải dài từ nghề dệt thổ cẩm, phong tục tập quán, làn điệu dân ca, đến những lễ hội truyền thống mang đậm dấu ấn của đồng bào các dân tộc.
Nằm ở vị trí cửa ngõ giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng, đồng thời là vùng lõi của trung tâm Việt Bắc, Thái Nguyên từ lâu đã trở thành nơi hội tụ, dừng chân của nhiều tộc người trên hành trình tìm cuộc sống an yên. Người Kinh từ miền xuôi lên, cùng với các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông, Sán Dìu, Sán Chay, Hoa và nhiều cộng đồng khác từ những dãy núi xa xôi tìm về, quần cư lập làng, dựng bản, tạo nên diện mạo phố phường và bản làng Thái Nguyên hôm nay.
Theo dòng chảy thời gian, sự cộng cư của nhiều dân tộc trên cùng một vùng đất, cùng một khu dân cư đã tạo nên sự giao thoa về văn hóa và phong tục tập quán.
Quá trình sống đan xen khiến cư dân buộc phải hình thành một ngôn ngữ chung nhằm thuận tiện cho giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hóa... Sự gắn bó ấy còn được củng cố qua những mối hôn phối giữa các cộng đồng, tạo nên thế hệ con em mang trong mình hai hay nhiều dòng máu, phản ánh sự hòa quyện và phát triển của nền văn hóa đa sắc màu Thái Nguyên.
Cùng với tiến bộ khoa học - kỹ thuật, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, sự phát triển của cơ chế thị trường và công nghệ số, đời sống xã hội đặt ra yêu cầu đồng bào các dân tộc phải chủ động thích ứng, tự đổi mới để hòa nhập với môi trường sống hiện đại.
Nghề đan lát truyền thống của đồng bào các dân tộc miền núi được phục hồi, phát huy.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không ít người thuộc các dân tộc thiểu số ngày nay không còn biết sử dụng tiếng nói của dân tộc mình, thậm chí không còn giữ trang phục truyền thống. Một số dân tộc có chữ viết riêng nhưng rất hiếm người biết đọc, biết viết.
Các làn điệu dân ca, điệu múa dân gian ít được lớp trẻ quan tâm khi thị hiếu chuyển sang dòng nhạc hiện đại. Những nghề thủ công truyền thống như đan lát mây tre, dệt vải, thêu thùa… dần bị biến thành loại hình mang tính “trình diễn” hơn là sinh hoạt thường nhật. Đáng chú ý, một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, giá trị của văn hóa nghệ thuật trong đời sống tinh thần của cộng đồng.
Nhiều nghi lễ tâm linh vốn mang bản sắc độc đáo của đồng bào lại bị nhìn nhận phiến diện, quy chụp là mê tín dị đoan. Thậm chí, có tình trạng một số em nhỏ người dân tộc thiểu số khi đến trường mặc cảm, không dám sử dụng tiếng mẹ đẻ hay khoác lên mình bộ trang phục truyền thống.
Phục hồi những nét đẹp văn hóa tinh hoa
Để gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số, tỉnh Thái Nguyên đã và đang triển khai nhiều hoạt động thiết thực. Các cấp, ngành liên quan chủ động sưu tầm, phục dựng những nét đẹp văn hóa đặc trưng, gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam” của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về “Công tác dân tộc”.
Nhờ đó, cộng đồng đã hình thành nhận thức tích cực hơn, biết trân trọng và đề cao giá trị phong tục, tập quán, bản sắc riêng của từng dân tộc.
Ghi nhận trong những năm gần đây, các cơ quan, đơn vị chức năng của tỉnh đã có nhiều đề tài khoa học trong bảo tồn, gìn giữ phát huy giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số. Hàng loạt hoạt động sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn văn hóa của đồng bào được triển khai thực hiện có hiệu quả.
"Múa bát" - một nét đẹp văn hóa của đồng bào dân tộc Tày được gìn giữ, phát huy giá trị.
Nổi bật trong công tác bảo tồn văn hóa là việc triển khai nhiều đề án về dân ca, dân vũ, âm nhạc dân gian trên địa bàn tỉnh thông qua hình thức thành lập các câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ. Tiêu biểu như: Đề án phục dựng đám cưới của người Tày ở xã Lam Vỹ; Lễ cầu mùa của dân tộc Sán Dìu tại xã Vô Tranh; Lễ cấp sắc của người Nùng Phàn Sình ở xã Nam Hòa; Đề án bảo tồn và phát huy di sản Then, hát Lượn Cọi, Lượn Slương trong đồng bào dân tộc Tày.
Cùng với đó, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc cũng được phục dựng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân như: "Chợ tình" ở xã Xuân Dương; Lễ hội Lồng Tồng ở Nà Liền Mạ, xã Phủ Thông; Lễ hội Mù Là tại thôn Lủng Phặc, xã Cao Minh…
Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng với sự vào cuộc trực tiếp của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch và nỗ lực của chính đồng bào, nhiều giá trị văn hóa phi vật thể từng đứng trước nguy cơ mai một đã được khôi phục, giữ gìn bản sắc gốc.
Những nét đẹp văn hóa độc đáo của mỗi dân tộc được trân trọng, tôn vinh, trong khi các hủ tục lạc hậu từng bước bị loại bỏ, tạo điều kiện cho những giá trị tinh hoa được lan tỏa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của đồng bào các dân tộc thiểu số. Qua đó, góp phần thu hẹp khoảng cách về mức sống và đời sống văn hóa giữa các vùng, các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Toàn tỉnh Thái Nguyên hiện có gần 600 di sản văn hóa phi vật thể đang được đồng bào bảo tồn, trao truyền và phát huy giá trị. Trong số đó, có 1 di sản được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và 45 di sản được công nhận cấp quốc gia. Đặc biệt, tỉnh có 3 Nghệ nhân Nhân dân và 19 Nghệ nhân Ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa. Họ chính là những “báu vật sống”, không chỉ lưu giữ kho tàng văn học, nghệ thuật của dân tộc mình mà còn tận tâm truyền dạy để các thế hệ mai sau tiếp nối, phát huy.
Ngọc Chuẩn