Thị trường xuất khẩu rau quả Việt Nam đang chứng kiến một cú bứt phá ngoạn mục. Theo số liệu từ Cục Hải quan, xuất khẩu rau quả trong tháng 9/2025 đạt gần 1,3 tỷ USD, mức cao kỷ lục từ trước tới nay.
Nghịch lý công nghệ và nguyên liệu đầu vào
Lũy kế 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đã vượt 6,1 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đặc biệt, trong nửa đầu tháng 9/2025, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt gần 650 triệu USD, tăng hơn 41% so với cùng kỳ năm trước.
Điểm đáng chú ý hơn cả trong bức tranh tăng trưởng này, theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, là sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhóm sản phẩm chế biến. Trái với xu hướng các năm trước khi hàng tươi chiếm ưu thế, hàng chế biến năm nay tăng trưởng nhờ doanh nghiệp đầu tư nhà máy hiện đại, mở rộng vùng chuyên canh và cải thiện chất lượng nguyên liệu.
Ông Nguyên khẳng định rau quả chế biến không chỉ nâng giá trị gấp 3 đến 5 lần so với hàng tươi mà còn giúp ổn định thị trường, hạn chế tình trạng “được mùa mất giá”, đồng thời giảm phụ thuộc vào xuất khẩu tươi sang một vài thị trường.
Tuy nhiên, đằng sau những con số ấn tượng đó, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn đang phải đối diện với thách thức nội tại dai dẳng, đó là sự không đồng đều về chất lượng nguyên liệu do sản xuất manh mún, là lực cản lớn nhất đối với tham vọng chế biến sâu.
Vùng nguyên liệu đạt chuẩn tạo điều kiện thuận lợi cho chế biến sâu.
Mặc dù kim ngạch chế biến sâu đang tăng trưởng, nhưng phần lớn sản phẩm rau quả Việt Nam xuất khẩu vẫn là dưới dạng tươi và sơ chế. Yêu cầu của chế biến sâu là vô cùng nghiêm ngặt, đòi hỏi nguyên liệu phải đạt các chỉ số kỹ thuật như độ Brix (độ ngọt) phải đạt dao động ±0.5 độ, hay hàm lượng chất khô phải ổn định. Chính sự chênh lệch lớn về giống, quy trình chăm sóc và độ chín giữa các mảnh ruộng nhỏ đã làm cho các chỉ số này không thể đồng nhất, gây khó khăn cho nhà máy.
Một giám đốc công ty chuyên sản xuất bột rau củ và nước ép cô đặc tại miền Nam cho biết doanh nghiệp cần nguyên liệu xoài có độ Brix ổn định từ 16 đến 18 độ để làm nước ép. Tuy nhiên, khi thu mua từ các hộ nông dân riêng lẻ, một xe tải có thể chứa xoài từ nhiều vùng khác nhau, dẫn đến độ Brix chênh lệch lớn, từ 12- 20 độ. Doanh nghiệp buộc phải phân loại thủ công lại, hoặc chấp nhận phối trộn để ổn định lại độ ngọt, làm tăng chi phí nhân công và tiêu hao năng lượng đáng kể. “Nếu mua từ một vùng chuyên canh lớn, chi phí này sẽ giảm 50%”, vị giám đốc này thông tin.
Vấn đề càng trở nên gay gắt hơn khi nhắm đến các thị trường xuất khẩu. Bà Đỗ Thị Mỹ Thơm, Giám đốc HTX Nông nghiệp và dịch vụ Hùng Thơm (Gia Lai), nhấn mạnh đến rào cản dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (MRLs). Các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản yêu cầu nguyên liệu phải đạt mức MRLs rất thấp. Nếu HTX làm việc với nhiều hộ nông dân nhỏ, việc truy xuất nguồn gốc, kiểm soát lịch sử phun thuốc là gần như bất khả thi. Thậm chí, chanh dây có thể bị ảnh hưởng bởi vườn cây bên cạnh do phun thuốc. Điều đó đồng nghĩa với việc vùng nguyên liệu không đạt tiêu chuẩn an toàn, gây thiệt hại cho đơn vị chế biến.
Trong khi theo thống kê của ngành chức năng, chỉ khoảng 15- 20% vùng nguyên liệu rau quả phục vụ chế biến sâu có thể truy xuất nguồn gốc rõ ràng đến từng lô sản xuất nhỏ. Đây là một con số thể hiện rõ tính manh mún trong quản lý chất lượng nông sản hiện nay.
Hệ quả từ canh tác manh mún
Manh mún trong canh tác cũng là khởi nguồn cho việc chất lượng nông sản không đảm bảo chất lượng. Hiện, quy mô đất canh tác bình quân của hộ gia đình Việt Nam vẫn còn rất thấp, khiến nông dân khó đầu tư vào công nghệ hiện đại và áp dụng đồng bộ các quy trình chăm sóc.
Ông Võ Tấn Bảo, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Tịnh Thới (Đồng Tháp) chia sẻ, nếu sản xuất nhỏ lẻ, mỗi hộ sẽ có cách làm riêng, người bón phân đạm nhiều, người bón kali, dẫn đến độ giòn, độ ngọt của xoài không giống nhau. HTX cũng rất khó để tổ chức thu mua đồng loạt. Muốn chế biến sâu, HTX phải kêu gọi nông dân ký cam kết và giám sát chặt chẽ từng liều lượng phân bón theo một quy trình nhất định. Thêm vào đó, nhiều giống cây trồng đang bị lão hóa, cho quả có kích thước không đồng đều, độ thịt mỏng và các chỉ số kỹ thuật kém ổn định khi chế biến, làm giảm hiệu suất thu hồi sản phẩm tại nhà máy.
Chế biến sâu hiện vẫn được coi là hướng đi tất yếu, đồng thời là lĩnh vực có thể nỗ lực phát triển để tận dụng xu hướng thị trường hiện nay và gia tăng giá trị sản phẩm. Việc đa dạng hóa sản phẩm, ví dụ như từ thanh long thành đồ uống, trái cây sấy, rượu vang, bánh kẹo, mỹ phẩm hay thực phẩm chức năng, không chỉ giúp nâng cao giá trị gia tăng mà còn giảm phụ thuộc vào xuất khẩu quả tươi.
Thực tế, một số HTX tại Lâm Đồng (HTX Hòa Lệ, HTX Hàm Đức…) đã tiên phong đưa sản phẩm chế biến vào hệ thống siêu thị, tham gia chương trình OCOP, thậm chí thử nghiệm xuất khẩu sang Nhật Bản và Hàn Quốc. Nếu được nhân rộng sẽ mở ra một cánh cửa mới, giúp ngành nông sản củng cố chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Để hiện thực hóa tiềm năng này, không còn cách nào khác ngoài việc phá vỡ rào cản chất lượng. Trong đó, TS Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn (Bộ NN-MT), cho rằng cần có cơ chế khuyến khích tích tụ ruộng đất thông qua hình thức HTX kiểu mới, có sự tham gia của doanh nghiệp, nhằm tạo ra các vùng nguyên liệu đạt quy mô đủ lớn để áp dụng công nghệ và tiêu chuẩn hóa.
Doanh nghiệp và HTX, nông dân phải ký kết hợp đồng bao tiêu chặt chẽ, quy định rõ đồng bộ giống, đồng bộ quy trình canh tác và đồng bộ thời điểm thu hoạch để đảm bảo tính đồng nhất về mặt kỹ thuật. Việc đầu tư vào các hệ thống quản lý dữ liệu đồng ruộng để theo dõi lịch sử canh tác, đảm bảo tính minh bạch và an toàn thực phẩm không chỉ đảm bảo chất lượng vùng nguyên liệu cho chế biến mà còn đáp ứng tuyệt đối yêu cầu của thị trường quốc tế.
Như vậy, chuyển đổi từ tư duy "sản xuất cái mình có" sang "sản xuất cái thị trường cần" với tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt là con đường hiệu quả để đẩy mạnh chế biến sâu, từ đó duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và thoát khỏi bẫy giá trị thấp.
Huyền Trang