Góp ý Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng- Bài 2: ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG: KHÔNG CHỈ TĂNG TỐC ĐẦU TƯ MÀ CÒN CẦN ĐÒN BẨY THỂ CHẾ

Góp ý Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng- Bài 2: ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG: KHÔNG CHỈ TĂNG TỐC ĐẦU TƯ MÀ CÒN CẦN ĐÒN BẨY THỂ CHẾ
7 giờ trướcBài gốc
Mỗi cây cầu, mỗi tuyến metro, mỗi mạng điện hay dữ liệu quốc gia đều là thước đo của kỷ luật thể chế, năng lực điều phối và niềm tin xã hội.
Nội dung về đột phá hạ tầng mà Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV đề ra là: "Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ và đột phá mạnh mẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; nhất là kết cấu hạ tầng giao thông đa phương thức, hạ tầng công nghệ phục vụ cho quá trình quản lý, quản trị và kiến tạo phát triển, hạ tầng phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu".
Đột phá này cần được hiểu theo nghĩa hệ thống – không chỉ là mở rộng đầu tư công trình, mà là nâng cao năng lực vận hành của toàn bộ kết cấu hạ tầng quốc gia. Bài viết đề xuất cách tiếp cận mới cho đột phá hạ tầng, bao gồm phương pháp xác lập ưu tiên khoa học, năm trụ cột đầu tư chiến lược, và cơ chế thực thi hiện đại theo mô hình Văn phòng quản lý dự án quốc gia (NPMO).
Hạ tầng – nền tảng vật chất của thể chế phát triển
Sau gần bốn thập niên tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, để bước vào kỷnguyên phát triển mới – kỷ nguyên của sáng tạo, xanh hóa và bền vững, đất nước ta cần một cú hích mạnh mẽ về kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội.
Hạ tầng không chỉ là những công trình vật chất, mà là năng lực vận hành của quốc gia – khả năng kết nối người dân, doanh nghiệp, vùng miền và các chuỗi giá trị. Một nền hạ tầng hiện đại giúp giảm chi phí giao dịch, tăng năng suất lao động, và mở ra không gian phát triển mới. Ngược lại, hạ tầng yếu kém chính là "điểm nghẽn rất lớn" trong quá trình phát triển.
Nhìn lại những năm qua, đặc biệt là nhiệm kỳ 2021-2025, nhiều dự án hạ tầng lớn đã được đầu tư, nhưng vẫn cần tiếp tục ưu tiên cho hạ tầng chiến lược, nhất là bảo đảm tính đồng bộ, tính kết nối và hiệu ứng lan tỏa. Đây là lúc chúng ta cần chuyển từ tư duy "xây dựng công trình" sang tư duy "kiến tạo hệ thống"- coi hạ tầng như một cấu phần thể chế của năng lực quốc gia.
Bản chất của "đột phá hạ tầng" trong giai đoạn mới
"Đột phá" không chỉ là tăng tốc đầu tư, mà là tăng năng lực vận hành của toàn hệ thống- được đo bằng thời gian, chi phí và độ tin cậy của luồng hàng, luồng người, luồng năng lượng và luồng dữ liệu.
Một con đường chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó kết nối được với các hành lang kinh tế, rút ngắn thời gian vận chuyển và giảm chi phí logistics. Một mạng điện chỉ phát huy cao nhất giá trị khi có khả năng điều độ thông minh, kết nối các nguồn năng lượng tái tạo và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Một hạ tầng số chỉ thực sự hữu ích khi nó trở thành "xương sống" của quản trị công và đổi mới sáng tạo.
Vì vậy, đột phá hạ tầng cần được định vị lại: từ "đầu tư mở rộng" sang "thiết kế vận hành"; từ "đơn ngành" sang "liên kết hệ thống"; từ "chi phí đầu tư" sang "hiệu quả vòng đời". Đây là cách tiếp cận thể hiện tầm nhìn thể chế và năng lực quản trị hiện đại.
Cần ưu tiên đầu tư cho (i) hạ tầng năng lượng – lưới điện – lưu trữ và điều độ thông minh
Xác lập ưu tiên – nền tảng khoa học cho một tầm nhìn dài hạn
Đầu tư hạ tầng luôn là lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực rất lớn và thời gian thực hiện dài. Trong điều kiện ngân sách công còn hạn hẹp, nợ công phải được kiểm soát, và khả năng huy động xã hội hóa chưa mạnh, việc xác định đúng thứ tự ưu tiên, đầu tư có trọng tâm trọng điểm là điều kiện tiên quyết để tránh đầu tư dàn trải, trùng lặp và kém hiệu quả. Đây cũng là định hướng quan trọng được Chính phủ nhất quán thực hiện trong nhiệm kỳ 2021-2025.
Trước hết, cần thống nhất ba nguyên tắc nền tảng trong xác lập ưu tiên đầu tư hạ tầng:
1. Gỡ nút thắt trước, mở không gian sau (Bottleneck first): tập trung vào các điểm nghẽn đang giới hạn năng lực của cả hệ thống, như hạ tầng truyền tải điện, hành lang logistics liên vùng, hay các tuyến kết nối cảng biển – khu công nghiệp – cửa khẩu;
2. Ưu tiên kết quả, không phải công trình (Outcomes over assets): không lấy số lượng dự án làm thước đo thành tích, mà đánh giá theo kết quả cụ thể – thời gian lưu thông, chi phí logistics, mức độ giảm ùn tắc, và hiệu quả phục vụ người dân, doanh nghiệp;
3. Duy tu trước khi mở rộng (Maintain before expand): đầu tư cho bảo trì, nâng cấp và tối ưu vận hành các công trình hiện có phải được xem là hình thức đầu tư sinh lợi cao, giúp tiết kiệm ngân sách và kéo dài tuổi thọ tài sản công.
Để bảo đảm tính khách quan, cần áp dụng hệ thống chấm điểm đa tiêu chí (MCDA) trong lựa chọn dự án. Mỗi dự án hạ tầng nên được đánh giá theo một bộ tiêu chí rõ ràng, bao gồm: 1. Mức độ tác động hệ thống và hiệu quả kinh tế – xã hội; 2. Khả năng kết nối chuỗi giá trị, hành lang kinh tế và vùng động lực; 3. Tác động đối với thích ứng khí hậu và giảm phát thải; 4. Khả năng huy động vốn ngoài ngân sách, đặc biệt là qua PPP, trái phiếu xanh, tín chỉ carbon; 5. Tính sẵn sàng thực thi (giải phóng mặt bằng, hồ sơ thiết kế, năng lực nhà thầu); 6. Khả năng tạo nguồn thu và bảo đảm chi phí vận hành, bảo trì bền vững.
Cùng với đó, nên áp dụng bốn phép thử "lọc cuối cùng" cho các dự án trọng điểm quốc gia: 1. Phép thử điểm nghẽn: dự án có thực sự nằm trên điểm nghẽn quan trọng của mạng lưới hay không? 2. Phép thử tin cậy: dự án có giúp tăng độ ổn định chuỗi cung ứng, giảm thời gian và chi phí lưu thông không? 3. Phép thử tài khóa: dự án có đảm bảo khả năng cân đối vốn, hạn chế đội vốn và duy trì chi bảo trì ổn định không? 4. Phép thử mở rộng: dự án có tạo ra không gian phát triển mới, mở đường cho ứng dụng công nghệ và đầu tư tiếp nối trong tương lai không?
Việc áp dụng các nguyên tắc và phép thử này không chỉ mang lại tính minh bạch và nhất quán trong lựa chọn đầu tư, mà còn giúp chuyển trọng tâm quản lý nhà nước từ "phê duyệt dự án" sang "quản lý hiệu quả danh mục" – tức là hướng tới một cơ chế điều hành dựa trên bằng chứng và kết quả. Khi đó, mỗi đồng vốn đầu tư hạ tầng không chỉ tạo ra một sản phẩm cụ thể, công trình cụ thể, mà còn mang lại một năng lực phát triển mới cho nền kinh tế quốc dân.
Năm trụ cột ưu tiên chiến lược cho giai đoạn 2026–2035
(1) Hạ tầng năng lượng – lưới điện – lưu trữ và điều độ thông minh. Bảo đảm an ninh năng lượng và thúc đẩy chuyển đổi xanh. Tập trung đầu tư truyền tải liên vùng, lưu trữ quy mô lớn, điều độ thông minh và thị trường điện cạnh tranh hoàn chỉnh.
Khuyến khích PPP truyền tải và hợp đồng khả dụng (availability-based contract) để huy động vốn tư nhân.
(2) Hành lang logistics đa phương thức và trung tâm logistics liên vùng. Phát triển các hành lang Bắc–Nam, Đông–Tây kết nối cảng biển, cửa khẩu, khu công nghiệp. Xây dựng ba trung tâm logistics cấp vùng (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ) làm hạt nhân điều phối chuỗi cung ứng.
Mục tiêu đến 2030: giảm chi phí logistics/GDP xuống dưới10%.
(3) Giao thông công cộng đô thị và phát triển theo định hướng giao thông (TOD). Hà Nội và TP.HCM cần ưu tiên mạng metro, BRT, và tuyến vành đai, kết hợp quy hoạch TOD – phát triển đô thị quanh nhà ga, khai thác chênh lệch địa tô để tài trợ cho hạ tầng và nhà ở xã hội.
(4) Hạ tầng số lớp nền và dữ liệu mở. Hạ tầng số là "hạ tầng của hạ tầng". Đầu tư trung tâm dữ liệu quốc gia, điện toán đám mây chính phủ (GovCloud), và National Digital Twin để quản lý tích hợp dữ liệu về giao thông, năng lượng, nước và đô thị. 100% dự án trọng điểm phải áp dụng Mô hình thông tin công trình(BIM) để quản trị vòng đời đầu tư.
(5) Hạ tầng chống ngập và thích ứng biến đổi khí hậu.
Đặt ưu tiên cho TP.HCM, Hà Nội, Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung ven biển. Áp dụng chuẩn thiết kế đàn hồi (resilience standard), kết hợp công trình và giải pháp thiên nhiên, sử dụng tín chỉ carbon như công cụ tài chính bổ sung.
Cơ chế thực thi – từ quyết tâm đến năng lực hành động
Một chiến lược hạ tầng chỉ trở thành hiện thực khi có cơ chế tổ chức thực thi đủ mạnh.
Theo đó, có thể thành lập Văn phòng Quản lý Danh mục Dự án Trọng điểm quốc gia (PMO quốc gia), vận hành hệ thống bảng điều hành tiến độ (dashboard) công khai, theo dõi từng dự án theo mô hình "đèn tín hiệu" (đỏ – vàng – xanh).
Hoàn thiện thể chế huy động vốn theo hướng kết hợp công – tư hiện đại, bao gồm cơ chế khai thác lại tài sản công để tái đầu tư hạ tầng mới (asset recycling), cơ chế kết hợp vốn công, vốn ODA và vốn tư nhân (blended finance), cùng các hình thức PPP và trái phiếu xanh, nhằm mở rộng không gian tài chính cho phát triển hạ tầng bền vững.
Hạ tầng – thước đo năng lực quản trị
Đột phá phát triển hạ tầng là một phép thử của năng lực tổ chức và điều hành đất nước. Một quốc gia phát triển không chỉ ở quy mô kinh tế, mà còn ở khả năng triển khai các dự án lớn đúng tiến độ, đúng chất lượng, và mang lại hiệu quả, lợi ích lâu dài. Mỗi cây cầu, mỗi tuyến metro, mỗi mạng điện hay dữ liệu quốc gia đều là thước đo của kỷ luật thể chế, năng lực điều phối và niềm tin xã hội.
Do đó, cùng với đột phá hạ tầng, cần song hành đột phá thể chế (để tháo gỡ ràng buộc pháp lý, tạo không gian linh hoạt cho đầu tư) và đột phá nhân lực (để có đội ngũ kỹ sư, chuyên gia, nhà quản lý dự án chuyên nghiệp).
Đột phá hạ tầng của tầm nhìn 2045
Nếu Đổi mới năm 1986 là cuộc cách mạng về thể chế kinh tế, thì Đại hội XIV cần mở ra cuộc cách mạng về thể chế hạ tầng- cuộc cách mạng của tư duy hệ thống, của chuẩn mực bền vững và của năng lực thực thi.
Mỗi đồng vốn đầu tư hạ tầng phải được đo bằng hiệu quả hệ thống, bằng năng suất quốc gia và bằng phúc lợi của người dân. Khi hạ tầng trở thành mạch máu khỏe mạnh của đất nước, Việt Nam sẽ có đủ năng lượng, kết nối và sức bật để bước vào kỷ nguyên phát triển hùng cường, hiện đại và bền vững vào năm 2045.
Với tinh thần như trên, tôi xin đề xuất điều chỉnh đoạn viết về đột phá phát triển hạ tầng trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV:
"(3) Tạo đột phá thực chất về kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, bảo đảm tính đồng bộ, hiện đại, kết nối và bền vững. Trọng tâm là phát triển hệ thống hạ tầng giao thông đa phương thức theo logic hành lang- nút- liên kết vùng, gắn với quy hoạch tích hợp đất- giao thông- năng lượng- số- môi trường.
Ưu tiên đầu tư cho (i) hạ tầng năng lượng – lưới điện – lưu trữ và điều độ thông minh; (ii) các hành lang logistics chiến lược và trung tâm logistics liên vùng; (iii) hạ tầng đô thị lớn gắn giao thông công cộng và mô hình phát triển theo định hướng giao thông (TOD); (iv) hạ tầng số lớp nền phục vụ quản lý, quản trị và đổi mới sáng tạo; (v) hạ tầng thích ứng biến đổi khí hậu và chống ngập ở các vùng dễ tổn thương.
Hoàn thiện thể chế huy động vốn theo hướng kết hợp công – tư (PPP) chuẩn hóa, trái phiếu xanh, tín chỉ carbon, bảo đảm hiệu quả, minh bạch và khả năng bảo trì bền vững.
Thiết lập Văn phòng Quản lý Danh mục Dự án Trọng điểm quốc gia (PMO quốc gia) để giám sát tiến độ và chất lượng đầu tư. Xác lập chỉ tiêu kết quả cụ thể đến năm 2035, như giảm chi phí logistics xuống mức ASEAN-4, tăng tỷ trọng vận tải xanh, bảo đảm cung ứng điện ổn định và hạ tầng số phủ khắp đô thị, từng bước hình thành mạng lưới hạ tầng xanh- số- chống chịu làm nền tảng cho phát triển bền vững".
Nguyễn Sĩ Dũng
Nguồn Chính Phủ : https://baochinhphu.vn/gop-y-du-thao-bao-cao-chinh-tri-dai-hoi-xiv-cua-dang-bai-2-dot-pha-phat-trien-ha-tang-khong-chi-tang-toc-dau-tu-ma-con-can-don-bay-the-che-102251031232724314.htm