Hai 'báu vật' của người dân Cổ Lũng

Hai 'báu vật' của người dân Cổ Lũng
3 giờ trướcBài gốc
Ông Hà Văn Sỹ giới thiệu về chiếc nồi đồng cổ.
Ở lưng chừng thác Hiêu (thôn Ấm Hiêu), khu đất với căn nhà sàn bề thế bao quanh bởi rừng cây, ao cá được gia đình ông Hà Văn Sỹ (SN 1970) đầu tư, chỉnh trang thành một homestay, gần chục năm nay luôn tấp nập khách. Dưới chân nhà sàn, ngay kề bộ bàn ghế gỗ đón tiếp khách là một chiếc nồi đồng có 4 quai, đường kính chừng vòng tay người lớn thu hút sự chú ý của du khách và cũng là 1 trong 2 cổ vật mà chúng tôi muốn tìm hiểu ở vùng đất này.
Chủ nhân của chiếc nồi đồng niềm nở tiếp khách và giới thiệu về cổ vật này với niềm tự hào sâu sắc: “Sinh ra và lớn lên ở vùng đất này, nên tôi nhớ rằng, trước đây cả xã (xã Cổ Lũng cũ) có 6 - 7 cái nồi tương tự, nhưng bà con bán hết cả, giờ chỉ còn duy nhất cái tôi đang sở hữu”.
Theo lời kể của ông Sỹ, chiếc nồi - còn gọi là cái vạc, tiếng Thái là “mó toong” (nồi đồng) hay “mó xíi hù” (nồi bốn quai) - vốn là tài sản nằm trong bộ vật dụng bằng đồng thu hồi của gia đình địa chủ trong xã, sau đó trở thành tài sản cộng đồng của các thôn. Đồ đồng xưa kia rất quý hiếm, với người Thái, còn phản ánh gia thế của chủ nhân trong cộng đồng. Sau này, là tài sản quý của thôn, được giữ gìn, bảo vệ cẩn thận, vốn chỉ được sử dụng trong các sinh hoạt cộng đồng hoặc cho các gia đình mượn khi có việc tang ma, hiếu hỷ. Sau này, khi các đồ gia dụng phổ biến thì chiếc nồi đồng ít được sử dụng hơn; đồng thời, năm 2015 thôn tiến hành làm nhà văn hóa, cần kinh phí nên quyết định bán đấu giá chiếc nồi.
Các ký tự trên chiếc nồi.
“Nhận thấy đây là cổ vật quý, nếu không giữ lại thì con cháu sau này không bao giờ còn cơ hội nhìn thấy di sản của ông cha, báu vật của thôn, nên tôi quyết định dùng 1 căn nhà sàn - giá trị thời điểm đó chừng 70 triệu đồng, để đổi lấy chiếc nồi. Thôn họp, nhất trí thông qua, tôi sở hữu chiếc nồi từ thời điểm đó, còn căn nhà sàn được dựng thành nhà văn hóa cộng đồng của thôn”, ông Sỹ nhắc lại cơ duyên với chiếc nồi.
Cũng theo ông Sỹ, chưa có nhà nghiên cứu hay cơ quan chuyên môn nào đến tìm hiểu về chiếc nồi. Vì thế, toàn bộ hiểu biết của ông cũng như tất cả mọi người trong thôn về chiếc nồi là những thông tin bằng cả chữ quốc ngữ và chữ tượng hình có trên chiếc nồi. Theo đó, dòng chữ quốc ngữ chạm nổi, đã mờ trên vành chiếc nồi có các thông tin, dường như là năm được đúc, chủ sở hữu và địa điểm, gồm: “năm 1921”, “Cổ Lũng tổng”, "...Hà Văn...". Ngoài ra, xung quanh thân nồi có 4 chữ tượng hình, trên vành nồi cũng có các dòng chữ tượng hình, mà theo lời các cụ cao niên trong thôn, thì có nội dung giống các dòng chữ quốc ngữ. Còn qua cân, đo, chiếc nồi nặng 94kg, cao 50cm, đường kính 1m.
“Dạo ấy kinh tế cũng chẳng dư dả gì, nhưng tôi quyết định mua để lưu giữ một di sản của cộng đồng. Sau này, có những người trả giá đến 400 triệu đồng nhưng tôi vẫn không có ý định bán” - ông Sỹ nhắn nhủ và nói vui kết thúc câu chuyện - “Với lại, từ khi chiếc nồi hiện diện, mọi công việc của gia đình đều thuận lợi”.
Các ký tự trên chiếc nồi.
Chia tay ông Sỹ, chúng tôi xuôi về thôn Lác gặp ông Hà Văn Tân (SN 1961) - chủ nhân của chiếc niễng đồng cổ. Ông Tân vui vẻ tiếp chuyện, kèm theo một thông báo: “Cách đây 10 năm, tôi đã đào hố, đổ bê tông để chôn giữ chiếc niễng”.
Ông Tân kể, niễng là vật dụng đồ xôi. Chiếc niễng mà gia đình ông sở hữu có từ bao giờ không rõ, gần nhất là được truyền từ đời ông nội Hà Văn Thị để lại. Chiếc niễng có đường kính 60cm, cao 60cm, có 2 tai và nặng 34kg, không có hoa văn, trước đây là chiếc niễng đồng lớn nhất của xã. Cùng với chiếc nồi đồng do ông Sỹ sở hữu, chiếc niễng được thôn sử dụng để đồ xôi trong các dịp lễ, tết và các gia đình mượn khi có việc hiếu, hỷ.
Điều đặc biệt, trong tâm thức của người dân thôn Lác và cả xã Cổ Lũng, đây là chiếc niễng “có hồn”. Số là, chiếc niễng xưa kia đã bị trộm 1 lần. Nhưng kẻ trộm mang chiếc niễng sang đến đất Hòa Bình (cũ) thì bị hộc máu mũi, hoảng sợ quá phải vứt lại khiến chiếc niễng bị mẻ mất 1 mảnh ở miệng. Người nhà truy tìm đến nơi thì lấy lại được.
Lại nữa, mỗi khi có việc cần sử dụng, bà con phải làm cơm, rượu để cúng cái niễng. Khi đồ xôi thì không được nói lời báng bổ, dò xét, không được dùng chân đá củi... Nếu phạm phải các “lỗi” ấy thì xôi không chín hoặc dở sống, dở chín.
Ông Hà Văn Tân giới thiệu về bộ nồi, niễng (bên phải) bằng đồng nhưng nhỏ hơn nhiều so với chiếc niễng đã chôn giấu.
Tất cả những chuyện này, được anh Hà Văn Kiên, Phó Chánh Văn phòng Đảng ủy xã Cổ Lũng, trước đây là Phó Chủ tịch UBND xã Cổ Lũng, cũng là con cháu trong nhà khẳng định. Cũng bởi yếu tố tâm linh của chiếc niễng, nên gia đình quyết định cất giữ vĩnh viễn.
Anh Hà Văn Kiên cho biết thêm: “Do điều kiện của xã Cổ Lũng trước đây và hiện nay chưa có kinh phí để đầu tư khu vực lưu giữ, trưng bày các di sản văn hóa. Chính vì thế, trong khi chờ các cơ quan chức năng giám định, đánh giá, công nhận giá trị của các di sản hiện có trên địa bàn, cấp ủy, chính quyền địa phương động viên bà con cố gắng gìn giữ, bảo tồn các di sản để giáo dục con cháu về truyền thống và cội nguồn”.
Bài và ảnh: Nguyên Phong
Nguồn Thanh Hóa : http://baothanhhoa.vn/hai-bau-vat-cua-nguoi-dan-co-lung-262995.htm