Hải Lượng Ngô Thì Nhậm (1746-1803) với sự phục hưng tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Hải Lượng Ngô Thì Nhậm (1746-1803) với sự phục hưng tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
3 giờ trướcBài gốc
Tượng danh sĩ Ngô Thì Nhậm tại vườn tượng danh nhân Bảo tàng Văn học Việt Nam
Ông xứng đáng được tôn vinh là nhà văn hóa tư tưởng, là danh nhân đất Việt. Gần cuối đời vào cuối thế kỷ XVIII, khi vương triều Tây Sơn bắt đầu suy, ông không được tin dùng, nên lui về Thăng Long tu thiền, nghiên cứu Phật pháp, lấy pháp hiệu là Hải Lượng, lập thiền viện tại phường Bích Câu để xiển dương tư tưởng nhập thế, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo, Phật tại tâm của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập.
1. Hành trạng và sự nghiệp
Ngô Thì Nhậm là con của danh sĩ Ngô Thì Sĩ; ông tên Phó, tự Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, sinh ngày 11-9 năm Bính Dần, tức ngày 25-10-1746, mất năm 1803, người xã Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội) trong một “thế gia vọng tộc” có truyền thống đạo đức, khoa bảng. Qua tên, tự, hiệu của ông, ít nhiều hé lộ mong mỏi, hoài bão của gia đình ông. Chữ “Thì Nhậm” có nghĩa là gánh vác đúng lúc; “Hy Doãn” là mong ước được như Tể tướng Y Doãn có công kinh bang tế thế thời nhà Thương ở Trung Quốc. Gần cuối đời ông theo Phật, viết sách, dạy thiền, xiển dương tôn chỉ của Thiền phái Trúc Lâm nên được các pháp hữu và đệ tử tôn xưng là Trúc Lâm Đệ tứ tổ.
Ông từ nhỏ vốn thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Nhờ truyền thống gia đình văn học và nhờ tư chất thông minh, Ngô Thì Nhậm thành công rất sớm. Mười sáu tuổi đã viết cuốn Nhị thập tứ sử toát yếu. Mười chín tuổi đỗ đầu kỳ thi khảo hạch. Hai mươi tuổi viết Tứ gia thuyết phả. Năm 1768, 23 tuổi, ông thi đỗ Hương nguyên, được bổ Hiến sát Phó sứ Hải Dương. Năm 1771, 26 tuổi, dự khảo thí ở Quốc tử giám, đỗ ưu hạng đồng thời hoàn thành công trình Hải Đông chí lược, một tập địa phương chí vùng đất Hải Dương. Năm 1775, ông thi đỗ thứ năm hàng Tiến sĩ Đệ tam giáp, cùng khoa với Phan Huy Ích. Sau khi đỗ đại khoa, ông được bổ làm quan Hộ khoa Cấp sự trung ở Bộ Hộ dưới triều Lê - Trịnh. Năm 1776, ông được bổ làm Giám sát Ngự sử đài đạo Sơn Nam, sau đó thăng Ðốc đồng trấn Kinh Bắc, trong khi đó thân phụ ông được thăng Đốc trấn Lạng Sơn. Năm 1778, ông kiêm nhiệm Ðốc đồng Thái Nguyên và soạn xong cuốn Công vụ thành thư (hiện chưa tìm được). Năm sau, 1779, ông được thăng Đông các Hiệu thư, dâng nhiều kế sách hay trong đạo trị nước, trong đó có các bài biểu nổi tiếng như Giáo nghị, Pháp nghịChính nghị. Nhưng do triều đại Lê - Trịnh lúc này đang suy vi, nên dù rất khen kế sách của ông, chúa Trịnh Sâm cũng không thể áp dụng nó vào thực tế. Vâng mệnh chúa Trịnh, Ngô Thì Nhậm soạn xong tập Thánh triều giám thư năm 1781, được thăng Nhập thị Bồi tụng, rồi giữ chức Đồn điền sứ lộ Trường Yên. Thời gian này, ông hoàn thành tác phẩm Bút hải tùng đàm. Từ năm 1782 đến năm 1786, ông viết bộ Xuân Thu quản kiến và hoàn thành tập Thủy vân nhàn vịnh. Năm 1785, Lê Hiển Tông băng hà, Lê Chiêu Thống nối ngôi, ban cho ông chức Hộ bộ Đô cấp sự trung, sau thăng lên Hiệu thảo kiêm Toản tu Quốc sử quán. Trong thời gian này, ông tu chỉnh bộ Ngũ triều thực lục do Ngô Thì Sĩ để lại. Từ năm 1775 đến năm 1788, ông hoàn thành tác phẩm Kim mã hành dư. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, chiêu hiền đãi sĩ, mời ông cộng tác với Tây Sơn, giữ chức Hữu Thị lang Bộ Công. Kiệt tác Bang giao hảo thoại được hoàn thành trong thời gian ông cùng Phan Huy Ích đảm nhiệm trọng trách bang giao với nhà Thanh, Trung Quốc. Năm 1790, ông được thăng Binh bộ Thượng thư; năm 1791, thăng Thị lang Đại học sĩ, ban hiệu Dực vận công thần; đến năm 1792, ông kiêm Quốc sử thự Tổng tài. Tác phẩm Ngọc đường xuân khiếu hoàn thành vào năm này. Cùng năm, vua Quang Trung băng hà. Triều Tây Sơn cử ông làm chánh sứ sang gặp vua nhà Thanh báo tang và xin cầu phong cho Nguyễn Quang Toản vào tháng hai năm Quý Sửu (1793). Tác phẩm Hoàng hoa đồ phả được ông viết trong lần đi sứ này.
Sau khi vua Quang Trung mất, Ngô Thì Nhậm dành nhiều thời gian nghiên cứu về Thiền phái Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Theo Ngô Thì Nhậm tác phẩm, ông lập thiền viện Trúc Lâm trong khoảng từ năm 1789 đến năm 1800. Các tác phẩm Cúc hoa thi trận, Cẩm đường nhàn thoại, Thu cận dương ngôn, Hào mân ai lục, Hàn các anh hoa, Liên hạ thi minh… đều được sáng tác trong khoảng thời gian này. Khoảng trước năm 1796, Ngô Thì Nhậm đã hoàn thành phần chính văn Đại chân Viên giác thanh của luận thuyết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh.
Năm 1802, khi Gia Long thay thế vương triều Tây Sơn, nhà vua đã hạch tội một số sĩ phu trước đây từng giúp triều Tây Sơn, trong đó có ông và Phan Huy Ích. Vì thế, ngày 9 tháng 3 năm 1803, ông xả bỏ báo thân khi bị Đặng Trần Thường đánh bằng roi tẩm thuốc độc ở Văn miếu trước đó không lâu.
2. Luận thuyết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh và sự phục hưng tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Về kết cấu, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một tác phẩm thuộc thể loại luận thuyết Phật học, gồm hai phần: phần đầu chép lại hành trạng ba vị Tổ Trúc Lâm, nhan đề là Tam Tổ hành trạng do Ngô Thì Nhậm viết; phần sau là Đại chân Viên giác thanh, với 24 chương viết về 24 thanh, bàn về 24 vấn đề liên quan đến tư tưởng Nho và Phật. 24 thanh của chính văn gồm: Không thanh, Ngộ thanh, Ẩn thanh, Phát tưởng thanh, Kiến thanh, Hoán thanh, Thoát thanh, Thu thanh, Định thanh, Tịch nhiên vô thanh, Trác thanh, Nhất thanh, Xu thanh, Biểu lý thanh, Hành thanh, Đỗng thanh, Minh thanh, Phán thanh, Túc thanh, Bất quả thanh, Tàng thanh, Hưởng thanh, Lưu động thanh, Dư thanh. Mỗi thanh có Thanh dẫn do Hải Huyền Ngô Thì Hoàng, em trai Ngô Thì Nhậm viết; Chính văn do Hải Lượng Ngô Thì Nhậm viết; Thanh chú do Hải Âu Vũ Trinh (cháu rể Nguyễn Du) và Hải Hòa Ngô Đăng Sở cùng viết; Thanh tiểu khấu do Hải Điền Nguyễn Đạm (tức Nguyễn Hành, con thứ của Nguyễn Điều, cháu ruột Nguyễn Du) viết.
Tác phẩm là một công trình tổng hợp Nho - Phật độc đáo, mà thanh thứ nhất Không thanh là minh chứng. Không là ý niệm căn bản trong Phật giáo Đại thừa và cũng là ý niệm quan trọng của Lão Tử. Ở Nho học thì “Không” tương đương với khái niệm “Vô cực” của Chu Liêm Khê, với “Hư” của Trình Minh Đạo và Trình Y Xuyên thời Tống. Ngoài ra, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh còn trình bày một số chủ đề khác để làm đề tài thiền quán như: Vấn đề giải thoát, Vấn đề nhận thức với Vô phân biệt trí, Quan niệm về Hành và Tàng, v.v. Qua phần chính văn, có thể thấy Ngô Thì Nhậm đã lĩnh hội yếu chỉ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nên được đạo hữu và đệ tử cùng người đương thời tôn vinh là Trúc Lâm Đệ tứ tổ.
Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một tác phẩm thuộc loại hình văn-triết-sử bất phân của thời trung đại, thể loại luận thuyết triết lý rất đặc sắc, mang đậm nét áo bí, đặc trưng cho tư tưởng phương Đông trong nền văn học Việt Nam nói chung, và văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng. Tác phẩm được viết năm 1796 tại thiền viện Trúc Lâm, phường Bích Câu, kinh đô Thăng Long là sự kết tinh trí tuệ của nhiều danh sĩ bậc nhất thời bấy giờ, có mục đích tìm một phương hướng giải quyết những bất ổn của xã hội Việt Nam lúc ấy. Nhìn từ góc độ này, người ta có thể thấy vai trò không thể thay thế của tác phẩm.
Trong Lời giới thiệu công trình “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh văn học Phật giáo Việt Nam” của Thích Hạnh Tuệ, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2018, nhà nghiên cứu Nguyễn Công Lý xác định “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một luận thuyết triết học Phật giáo Thiền tông khó đọc, khó nắm bắt nếu người đọc không có cái nền, cái vốn về Phật học, Thiền học vững vàng”. Người giới thiệu cũng chỉ ra đây là một tác phẩm lạ vì có nhiều người tham gia trước tác, “mỗi người thực hiện một nội dung mà những nội dung này xoay quanh cái trục tư tưởng cốt tủy của phần Chính văn”(1).
Đây là một trong những luận thuyết triết học hết sức đặc biệt trong nền văn học Phật giáo Việt Nam, sử dụng các khái niệm của nhà Nho để giải thích đạo Phật trên tinh thần dung hợp Tam giáo. Bằng ngôn ngữ mới lạ, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh cung cấp một cách nhìn khác để dẫn dắt những người chưa quen với Thiền ngữ có thể nhận thức được tầm vóc to lớn của Phật học, điều mà các hành giả tu thiền vốn quen với những kỹ thuật của Thiền tông Trung Quốc cảm thấy xa lạ, nhưng những ai đã biết đến những tư tưởng cư trần lạc đạo hay hòa quang đồng trần, dĩ Nho giải Phật sẽ nhanh chóng nhận ra những nét quen thuộc trong tư tưởng của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Tác phẩm cổ xúy cho tinh thần khôi phục tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập.
Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là tác phẩm lớn cuối cùng của Hải Lượng, là kết tinh chín muồi cả về nội dung tư tưởng lẫn bút pháp nghệ thuật của vị thiền sư danh sĩ này.
Nếu xem số 12 chương của kinh Viên giác là 12 tháng của một năm và số 24 thanh của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là 24 tiết (mỗi tháng có 2 tiết) thì cũng vừa đúng một năm.
Hơn nữa, 12 chương của kinh Viên giác tương thích với Thập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Mà Thập nhị địa chi phối hợp với Thập thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và Bát quái (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) lập thành biểu đồ hình tròn Nhị thập tứ thanh phối khí ứng sơn chi đồ (Biểu đồ 24 thanh phối với các tiết trong năm). 24 thanh trong phần chính văn của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được xếp theo thứ tự thuận chiều kim đồng hồ và có mối liên kết chặt chẽ.
24 thanh trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh ứng với 24 tiết trong vòng tuần hoàn của một năm, được làm rõ trên Nhị thập tứ phối khí ứng sơn chi đồ và số 12 chương của kinh Viên giác cũng vừa ứng với 12 tháng của một năm. Phải chăng, số lượng chương của hai tác phẩm này có mối liên hệ mật thiết với nhau?
Nếu bốn chương đầu (chiếm 1/3 của 12 chương) trong kinh Viên giác, là bốn chương căn bản của kinh và chương Văn Thù (chương 1) là trọng yếu trong bốn chương thì ở Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, tám thanh đầu (chiếm 1/3 của 24 thanh) là tám thanh căn bản của tác phẩm và chương Không thanh (chương 1) là trọng yếu của tám chương. Bảy chương kế tiếp của kinh Viên giác (từ chương Di Lặc đến chương Viên giác) cũng như 14 thanh kế tiếp của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh (từ chương Định thanh đến chương Hưởng thanh) nhằm quyết trạch những nghi lầm và mở rộng phương tiện cho phù hợp với tất cả các đối tượng. Chương Hiền thủ (chương cuối) của kinh Viên giác và hai thanh kết thúc tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh đều làm nhiệm vụ của phần lưu thông, lưu hành không để tác phẩm gián đoạn.
Tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh phần chính văn Đại chân Viên giác thanh của Ngô Thì Nhậm bắt đầu bằng chương Không thanh. Trong khi đó, trước khi nói kinh Viên giác, Đức Phật và chúng đệ tử đều an trú trong chánh định, thể nhập vào tự tính thanh tịnh, không còn vọng tâm quấy nhiễu thì mới có thể nói và nghe về cảnh giới Viên giác. Phải chăng tác giả của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh muốn bắt đầu từ cảnh giới Chân không (Không thanh) đi đến cái Diệu hữu (23 thanh còn lại) để triển khai tông chỉ của mình? Đây là con đường đi từ thể đến dụng, từ tính ra tướng. Và Đại trí Văn Thù Sư Lợi là vị Bồ-tát đầu tiên phát khởi trong kinh Viên giác, cũng tức là tiêu biểu cho căn bản trí trong Phật giáo. Như vậy, đại diện cho cảnh giới Phật trí tròn đầy, viên mãn, thường biểu thị bằng cái vòng tròn giống như số 0, thì Văn Thù Bồ-tát chính là hình tượng đắc địa. Cái biểu tượng thể tính Viên giác tròn đầy tương thích với Không thanh của Hải Lượng Thiền sư không thể dùng ngôn ngữ giảng biện, không thể dùng trí phân biệt đo lường, chỉ có thể tạm mượn lời bài kệ thứ 10 nói về cảnh giới giác ngộ của Phổ Minh Thiền sư trong Thập mục ngưu đồ để gợi:
Nhân ngưu bất kiến yểm vô tông
Minh nguyệt quang hàm vạn tượng không.
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng.
(Chẳng thấy người, trâu dấu mịt mùng
Ánh trăng trong suốt thảy đều không.
Muốn tìm ý chính bên trong ấy
Cỏ dại hoa thơm vẫn biếc nồng).
Người chăn và con trâu đều vắng bặt, ánh trăng hòa cùng vạn tượng không còn phân biệt, tức là nhân - ngã đều xả, tâm - pháp đều quên. Đó cũng chính là lúc ánh sáng trí tuệ tự tính chiếu soi vô cùng, hương thơm lan tỏa khắp muôn phương, không ngăn mé, không biên giới, cũng không thể dùng tư duy logic hiểu được, mà chính tự bản thân phải thể nhập vào cảnh giới đó.
Chỉ với mười hai chương, tổng cộng hơn mười ba ngàn chữ của kinh Viên giác đã dung chứa toàn bộ tinh yếu nghĩa lý uyên áo của một trong những hệ tư tưởng vĩ đại trên thế giới. Những phạm trù cơ bản trong triết học Phật giáo nói chung, kinh Viên giác nói riêng như: Phật tính, bản thể, bình đẳng, lý, dục, tham ái, luân hồi, tiền kiếp, tịch diệt, phá chấp, sinh diệt, giải thoát… được Hải Lượng Thiền sư, không những tiếp thu, thể nghiệm mà còn hình tượng hóa chúng thành một công trình nghệ thuật ngôn từ độc đáo: Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh.
Từ đó, có thể nói Hải Lượng Ngô Thì Nhậm sáng tạo ra “kinh Viên giác mới” trên cơ sở vận dụng một cách nhuần nhuyễn và khéo léo những trải nghiệm bản thân về Phật, về Thiền cộng với tri thức Nho học vốn có của ông vào việc giảng giải một cách dễ hiểu những phạm trù uyên áo của nhà Phật theo xu hướng thực tiễn hóa, đơn giản hóa một cách rạch ròi, khúc chiết, làm cho người học dễ dàng nắm bắt và áp dụng vào việc xác định đường hướng và tông chỉ tu tập trên tinh thần “dĩ Nho giải Phật”.
24 chương của phần chính văn tác phẩm là một công trình nghệ thuật ngôn từ đặc sắc, bút pháp đạt tới mức tinh tế, mỗi câu mỗi chữ đều có hàm ý sâu sắc, nhằm cảnh tỉnh người nghe, dẫn dắt người nghe quay về với chân tâm thanh tịnh sáng suốt, không bị ngoại cảnh mê hoặc, trói buộc.
Giá trị tư tưởng của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh còn thể hiện ở chỗ, toàn bộ tác phẩm là một lộ trình tu tâm dưỡng tính hoàn chỉnh và xuyên suốt không chỉ phù hợp với thời đại ông sống, mà còn thích hợp với cả con người đương đại. Tám chương đầu tiên, tác giả chú trọng vào việc giác ngộ chân tâm thanh tịnh của mỗi người, tự tính của vạn pháp, bản chất của vạn vật (lý) để làm kim chỉ nam cho việc thanh lọc nội tâm, loại bỏ tạp niệm, khai thông căn bản trí tuệ (Bát-nhã). Tám chương giữa là sự hòa quang đồng trần, thiên về tinh thần nhập thế, làm lợi ích cho chúng sinh theo kiểu Bồ-tát hạnh, để phát huy trí tuệ và nâng cao đạo hạnh trong thử thách chướng ngại. Và tám chương cuối chính là sự kiểm nghiệm lại toàn bộ sự trải nghiệm trong quá trình tu tập ở trên và xác định rõ ràng con đường đi tới tự do tự tại, giác ngộ và giải thoát.
Đọc kỹ Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, chúng ta càng thấy rất rõ ràng rằng, nội dung chủ đạo xuyên suốt tác phẩm chính là xu hướng tư tưởng “dĩ Nho giải Phật”. Vì sao trong giai đoạn lịch sử này Hải Lượng Thiền sư và các pháp hữu phải làm như vậy? Vì trong thời này, tầng lớp Nho sĩ rất thịnh, chiếm vị trí quan trọng trong chính trường, hơn nữa, một bộ phận lớn Nho sĩ, do chưa thông hiểu triết lý nhà Phật và có sẵn thành kiến cố chấp, nên kịch liệt đả kích Phật giáo, đến nỗi Lê Quý Đôn phải lên tiếng ngăn cản. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho nguyên khí quốc gia suy yếu, dẫn đến nội chiến, loạn lạc trong một thời gian dài.
Nội dung tư tưởng của tác phẩm thể hiện rõ ở nhan đề Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh (giáo lý chân truyền của Thiền phái Trúc Lâm). Chữ “thanh” ở đây chỉ giáo lý, học thuyết. Nhan đề tác phẩm có chủ đích là truyền bá và phát triển tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Sơ tổ Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Nhưng nội dung tư tưởng của tác phẩm hướng đến sự dung hợp tư tưởng Phật - Nho - Đạo trên quan niệm dung hợp Tam giáo. Cụ thể, tư tưởng cốt yếu trong các bộ kinh Phật giáo Đại thừa như: Kim cang, Viên giác, Bát nhã, Lăng già, Pháp hoa, Hoa nghiêm, Lăng nghiêm, Duy Ma; các bộ kinh sách quan trọng của Nho giáo như: Tứ thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử), Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu); các bộ kinh trong Đạo tạng của Đạo giáo như: Lão Tử Đạo đức kinh, Trang Tử Nam hoa kinh, Thái thượng cảm ứng thiên, Ngọc Hoàng cốt tủy kinh… được tác giả khai thác một cách hữu hiệu nhằm luận giải sự tương quan nhất trí giữa Phật và Nho. Có thể thấy, những cốt lõi tinh túy của cả ba hệ tư tưởng Phật - Nho - Đạo đều được tác giả thể hiện trong tác phẩm. Những tư tưởng uyên áo và hàm súc đó được truyền tải và thể hiện bằng những hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi cảm, qua một nghệ thuật ngôn từ tuyệt diệu, bút pháp đạt đến mức tinh tế như hoán dụ, thậm xưng, ẩn dụ, so sánh, sử dụng điển cố, điển tích, v.v.
Có thể nói rằng, với tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và lịch sử văn học Việt Nam, Hải Lượng Ngô Thì Nhậm đã dùng ngôn từ nghệ thuật truyền tải tài tình những phạm trù triết lý uyên áo và khô khan của ba hệ tư tưởng cổ đại phương Đông Phật - Đạo - Nho nói chung, xu hướng dĩ Nho giải Phật (dùng triết lý nhà Nho để giải thích Phật giáo) nói riêng, một cách trí tuệ, có hệ thống, có lý luận mà xưa nay hiếm người làm được.
Đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thời trung đại, chúng ta mới thấy rõ tâm huyết và trí tuệ của các tác giả mà tiêu biểu là Thiền sư Hải Lượng. Và cũng chỉ như thế chúng ta mới thấy hết được vai trò và giá trị không thể thay thế được của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo cuối thế kỷ XVIII.
Đóng góp của Thiền sư Hải Lượng về cách giảng giải Phật lý qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được Bảo Chân Phan Huy Ích tán dương: “Ông anh vợ tôi là Hy Doãn Công, quan Thị trung Đại học sĩ, học thức cao rộng, hơn hẳn người thường. Kinh nghiệm đúc kết càng uyên thâm, sự nghiệp càng thêm tinh túy, Tam giáo cửu lưu, Bách gia chư tử không gì là không thâu tóm được đầy đủ, hợp với tấm lòng rộng lớn, đủ để điều khiển được muôn vật, nắm vững được Tam huyền. Bộ sách Hai mươi bốn thanh âm của ông soạn ra đã đem hết những chỗ mà lời lẽ của nhà Phật còn lờ mờ huyền bí, chia cắt thành từng đoạn, thâu tóm, tập hợp thành đầu mối theo thứ tự từng tiết, cho nên những gì là tinh túy, uẩn súc đã được mở rộng ra, rồi đem công hành trên bản in để tỏ rõ cho rừng Thiền được biết”(2).
Có thể nói, các phạm trù cơ bản trong triết lý Phật giáo như: lý, dục, luân hồi, nhân quả, thần thông, từ bi, hỷ xả, tịch diệt, phá chấp, giác ngộ, giải thoát, Niết-bàn, sinh tử, duyên khởi, chân như, Phật tính… đã được Thiền sư Hải Lượng thực tiễn hóa, đơn giản hóa một cách rạch ròi, khúc chiết, làm cho người học dễ dàng nắm bắt được đường hướng và tông chỉ tu tập. Đây là lý giải mới của ông về Phật, về Thiền. Ông vận dụng nhuần nhuyễn và khéo léo những tri thức Nho học vào việc giảng giải một cách dễ hiểu những phạm trù uyên áo của nhà Phật theo xu hướng “Dĩ Nho giải Phật”. Để ứng dụng tư tưởng nhà Phật vào trong đời sống, nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay một cách hữu hiệu, thì những nhận thức mới và lý giải mới của Thiền sư Hải Lượng là bài học mà những ai quan tâm đến tiền đồ của Phật giáo cũng đều phải suy nghĩ.
3. Bên cạnh phần Đại chân Viên giác thanh trong luận thuyết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh thì Ngô Thì Nhậm còn để lại một số bài thơ thể hiện cảm quan Thiền Phật như bài Hưng Long tự tặng Liên Lão Thiền sư chẳng hạn.
Ngô Thì Nhậm vốn xuất thân trong gia đình có truyền thống Nho gia, cuối đời tu Phật lấy hiệu là Hải Lượng Thiền sư, dốc lòng tu đạo, xây dựng chùa chiền, tận tâm hoằng dương Phật pháp cho đến lúc qua đời. Trong số gia tài đồ sộ quý giá đó có bài thơ Hưng Long tự tặng Liên Lão Thiền sư.
Bài thơ này được sáng tác khi tác giả đi sứ Trung Hoa, có đi qua núi Hưng Long, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ghé vào chùa Hưng Long viếng thăm Thiền sư Liên Lão. Nhân duyên cảm hứng của bài thơ này được nhà thơ cẩn thận ghi lại với cả tấm lòng cung kính: “Chuyết phương tại mang trung, đắc phùng nhất tự, tưởng như đăng bảo sơn nhi chiêm tuệ nguyệt, trần lự đốn giác khoát nhiên, thậm dục dữ lão Pháp sư cánh nhật huyền đàm, nhi công vụ thông thông, nãi tri Trúc viện chi lạc, Như Lai Thế Tôn bất sĩ khinh hứa nhân dã. Nhiên tắc đáo thử, bất khả vô nhất tán, ức diệc vong kỳ lậu dã”. (Đang lúc bận rộn, tôi may gặp được lão tăng chuyện trò, tưởng như lên núi báu mà ngắm trăng tuệ, lòng bỗng thấy lâng lâng thanh tịnh, rất muốn cùng Pháp sư bàn về sự huyền diệu của đạo Phật suốt ngày, nhưng việc công quá bận rộn, thế mới biết sự an lạc nơi Trúc viện Như Lai Thế Tôn không dễ cho người. Nhưng đã đến đây, không thể không có lời ca tụng, nên tôi tạm quên mình là người thiển lậu).
Liên hoa vân, ngũ hương huân
Đại pháp luân, hiện kim thân.
Cảnh trường xuân, oánh vô trần
Hữu lão nhân, tuyệt tham sân.
Lưỡng hải ngân, hội đạo chân
Mai tinh thần, hảo ẩn luân.
Xa lân lân, mã phân phân
Danh lợi khuân, địch thập phần.
Phiến thì thân, ủy sở văn
Tương giảng luận, hiện ân cần.
Từ bi tân, quảng vô ngân
Ngã nguyên vân: Lão như quân”.
(Mây hoa sen, xông năm hương
Xe pháp lớn, hiện thân vàng.
Cõi trường xuân, sạch bụi trần
Có ông già, dứt tham sân.
Đôi tròng mắt, thấu đạo chân
Thần như mai, khéo ẩn thân.
Xe rầm rầm, ngựa hý ran
Vòng danh lợi, sạch mười phân.
Thoáng gần gũi, giải băn khoăn
Cùng bàn luận, rất ân cần.
Bến từ bi, rộng mênh mông
Tôi nguyện rằng: được như ông).
Làm người sống trong vòng danh lợi đua chen, muốn có được ít thời gian nhàn nhã đã là khó, huống chi trong lúc nhàn mà được đàm đạo với một vị thiền sư khả kính uyên thâm nơi Trúc viện tĩnh mịch thì lại càng khó hơn.
Có thể nói rằng đây là giai đoạn hiển đạt nhất của Ngô Thì Nhậm, cũng chính là lúc ông thực hiện được một phần hoài bão kinh bang tế thế như Y Doãn nhà Thương, như đã thể hiện trên tên tự và tên hiệu của ông. Vì sao một người đang ở trên đỉnh cao của danh vọng, sống vinh hoa phú quý như Ngô Thì Nhậm lại chỉ có nguyện ước được như Thiền sư Liên Lão ở chốn không môn. Lý do là ở chỗ Ngô Thì Nhậm cảm nhận được sự bình thường mà tự tại siêu việt toát ra từ phong thái và công hạnh tu hành của Thiền sư Liên Lão, mà bản thân Ngô Thì Nhậm tự thấy rằng mình còn nhiều thứ phiền não trói buộc, chưa thể đạt tới trạng thái tự tại vô ngại như thiền sư này. Thật ra Thiền sư Liên Lão này có gì đặc biệt khiến cho một Thị lang Đại học sĩ, Dực vận công thần hết lòng tán thán như vậy?
Trước hết, đó là “ông già dứt hết tham sân”. Tham lam và sân hận là hai thứ bệnh vô cùng khó trị của tất cả chúng sinh vì cội rễ của chúng rất sâu dày. Tham lam và sân hận cũng là những nguyên nhân chính dẫn chúng sinh trôi lăn trong sáu đường, chịu khổ vô cùng. Người nào đoạn tuyệt được tham lam và sân hận thì có thể nói rằng người đó đã chặt đứt được gốc rễ của khổ đau, dần dần thoát ra khỏi sự bức bách trong sáu đường sinh tử luân hồi, đạt đến an vui giải thoát.
Kế đó, thiền sư có “đôi mắt nhìn thấu được đạo chân”. Nói theo ngôn ngữ nhà thiền thì Liên Lão là người “sáng mắt”, là người liễu ngộ Phật tính. Tức là người thấu rõ đạo lý, thông suốt bản chất của vạn tượng, hiểu thấu tự tính của vạn pháp, triệt ngộ chân tâm thanh tịnh của mọi chúng sinh, hoàn toàn không vọng tưởng điên đảo, tri kiến mê lầm.
Thứ đến, thiền sư đã “thoát hẳn ra khỏi vòng danh lợi”. Điều này được tác giả thể hiện rất chi tiết: “Tinh thần như mai, khéo léo ẩn thân”. Mặc dù nơi ở của thiền sư là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, thiền viện nguy nga tráng lệ, hơn nữa còn là nơi nhà vua thường ngự giá bái Phật, thế nhưng nhà sư vẫn không nhiễm chút bụi trần, không nhuốm mùi lợi danh. Trong khi danh và lợi là hai thứ ham muốn mà ngay cả những người chuyên tâm tinh tấn tu hành cũng rất khó vượt qua chứ chưa nói người bình thường. Nếu lánh vào rừng sâu núi cao, không người lai vãng mà tịnh tâm tu hành cũng chỉ là “tiểu ẩn”, Thiền sư Liên Lão “ẩn” ngay trong chốn “xe rầm rầm, ngựa hý ran” mới thật đúng là “đại ẩn”.
Quan trọng hơn là chỉ cần “thoáng gần gũi thân cận thiền sư, sẽ hóa giải được những băn khoăn khúc mắc”. Không những thế, ngay cả thái độ ân cần thân thiện trong khi bàn luận Phật pháp cũng cảm được người nghe.
Nhất là tấm lòng từ bi rộng mênh mông không bờ bến của thiền sư đã đạt tới cảnh giới không thể nghĩ lường khiến cho tác giả không thể không cảm thán mà thốt lên từ tận đáy lòng: “Tôi nguyện rằng được như ông”.
Không gian của Trúc viện vốn đã rất đẹp và thanh tịnh “cõi trường xuân không có chút bụi trần”, có “mây tụ hình hoa sen” và được xông bằng “năm thứ hương quý báu: giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương”. Nhưng đẹp hơn cả chính là hương đức hạnh, hương trí tuệ của Thiền sư Liên Lão. Chính loại hương đức trí này làm nên vẻ đẹp chân thật và tuyệt diệu, lan tỏa khắp nơi, tạo nên cái đẹp trường cửu và miên viễn của Phật pháp, xoa dịu bớt những đau thương khổ não của muôn vạn chúng sinh trong cõi ngũ trược ác thế này.
Ngoài mấy bài thơ trên, Hải Lượng Ngô Thì Nhậm còn viết một số bài thơ chữ Hán thể hiện cảm quan Thiền Phật như: Cổ tự, Đạo ý, Vãn thu tham thiền, Đề Vạn Niên am, Lệ Giang vãn vọng, Tọa Dục Thúy sơn thiên thạch loan tức hứng, Cảm hứng. Và một truyện ký chữ Hán: Tam Tổ hành trạng viết về hành trạng của ba vị Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm Yên tử đời Trần là Đệ nhất tổ Phật hoàng Trần Nhân Tông, Đệ nhị tổ Pháp Loa, Đệ tam tổ Huyền Quang.
Tóm lại, qua phần chính văn trong luận thuyết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh và một vài bài thơ chữ Hán viết về Thiền Phật, có thể nói Hải Lượng Ngô Thì Nhậm là người xiển dương và phục hưng tư tưởng nhập thế tích cực của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập.
____________
(1)Nguyễn Công Lý, “Lời giới thiệu” chuyên khảo Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại của Thích Hạnh Tuệ. NXB.Khoa học xã hội, Hà Nội, 2018.
(2)Phan Huy Ích, “Lời tựa” sách Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. In trong “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh”. Mai Quốc Liên (chủ biên), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 3, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và NXB.Văn Học, TP.HCM, 2002.
Tài liệu tham khảo
Kinh Viên giác (Đại phương quảng Viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh). Thích Thanh Kiểm dịch. Vĩnh Nghiêm ấn hành.
Ngô Thì Nhậm (2002). Ngô Thì Nhậm tác phẩm. 4 tập. Mai Quốc Liên chủ biên. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và NXB.Văn Học. TP.HCM.
Thích Hạnh Tuệ (2018). Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo Việt Nam thời trung đại. NXB.Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Công Lý, Nguyễn Công Thanh Dung (2022). Văn học Phật giáo thời Lê - Nguyễn: diện mạo, thành tựu, đặc điểm, tác gia tiêu biểu. NXB.KHXH, Hà Nội.
(NSGN - 354)
PGS.TS. Nguyễn Công Lý/Nguyệt san Giác Ngộ
Nguồn Giác ngộ : https://giacngo.vn/hai-luong-ngo-thi-nham-1746-1803-voi-su-phuc-hung-tu-tuong-thien-phai-truc-lam-yen-tu-post77276.html