Tại chương trình “Bàn tròn chính sách” tổ chức ngày hôm nay (11-3) của Vietnambiz, các chuyên gia đưa ra nhiều thảo luận xung quanh vấn đề “room tín dụng”- hạn mức tín dụng cho các ngân hàng.
Trong giai đoạn đầu, NHNN có thể thử nghiệm cho khoảng 15 - 20 ngân hàng thuộc nhóm tốt nhất được tự do tăng trưởng tín dụng, trong khi các ngân hàng còn lại vẫn phải phân bổ tín dụng theo hạn mức, chuyên gia nhận định - Ảnh: TPBank
Hạn mức tín dụng trong hệ thống ngân hàng quốc tế
Ông Lê Hoài Ân, chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng, người sáng lập IFSS và đồng sáng lập WiResearch, cho rằng trong thập niên vừa qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã làm khá tốt việc sử dụng room tín dụng để điều phối nền kinh tế. Tuy nhiên, theo ông, bao giờ có “trần” thì cũng tạo sự “cồng kềnh”.
Trong giai đoạn đầu, ngành ngân hàng cũng phải loay hoay để thích ứng. Nhưng những năm về sau, khi càng minh bạch và có những tiêu chí rõ ràng hơn, các ngân hàng càng nắm rõ hơn về việc với năng lực của mình, được cấp room tín dụng bao nhiêu là phù hợp.
Đến năm 2024, lần đầu tiên NHNN giao hạn mức tín dụng ngay từ đầu năm và năm nay cũng vậy. Có thể thấy, thay vì “bỏ hay không bỏ room tín dụng”, NHNN sẽ nghĩ nhiều hơn đến câu chuyện khi nào bỏ room tín dụng thì phù hợp nhất và tiến từng bước tới lộ trình bỏ hạn mức tín dụng.
Ông Ân nhấn mạnh hiện trên thế giới gần như không có quốc gia nào hạn chế về hạn mức tín dụng. Ngay cả các quốc gia trước có áp dụng thì nay hầu như đã bỏ hạn mức. Hiếm có quốc gia nào trên thế giới còn phải điều hành tăng trưởng tín dụng như Việt Nam bởi cũng không có quốc gia nào có những điểm đặc thù.
Thứ nhất, Việt Nam là một trong những quốc gia tăng trưởng cao của thế giới và để tăng trưởng cao như vậy cần có sự kích thích kinh tế, trong đó có yếu tố từ tín dụng.
Thứ hai, theo cơ chế thị trường, dòng tiền sẽ chảy về những nơi mang lại lợi nhuận trong ngắn hạn và xảy ra tình trạng đầu cơ. Vì vậy, vai trò của Nhà nước là điều tiết để dòng tiền đi vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong giai đoạn đầu để tạo một nền công nghiệp quốc gia.
Trong tháng 2 vừa qua, NHNN đã bắt đầu đưa tín hiệu về việc bỏ hạn mức tín dụng khi thị trường chứng khoán, trái phiếu phát triển hơn. Thị trường chứng khoán của Việt Nam cũng đang tiến tới được nâng hạng và sẽ đóng vai trò tốt hơn trong thị trường vốn.
Lộ trình bỏ hạn mức tín dụng
Về lộ trình bỏ hạn mức tín dụng, TS. Nguyễn Tú Anh, nguyên Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương cho rằng trong giai đoạn đầu, NHNN có thể thử nghiệm cho khoảng 15 - 20 ngân hàng thuộc nhóm tốt nhất được tự do tăng trưởng tín dụng, trong khi các ngân hàng còn lại vẫn phải phân bổ tín dụng theo hạn mức.
Việc này sẽ tạo ra động lực và khuyến khích các ngân hàng không nằm trong nhóm tự do phải nâng cao chất lượng quản trị và hiệu quả hoạt động để có thể gia nhập nhóm này. Việc tăng tín dụng cho các ngân hàng là điều tích cực, nhưng các ngân hàng muốn được tự do phải đáp ứng những tiêu chí và điều kiện nhất định.
Điều này không chỉ tạo ra sức ép cạnh tranh mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng mà còn thúc đẩy việc xây dựng các ngân hàng chất lượng tốt hơn. Đối với những ngân hàng không thể cạnh tranh được, sẽ cần phải xem xét các giải pháp hội nhập hoặc hợp tác với nhau, qua đó tạo ra sự cạnh tranh tốt hơn.
Còn từ góc độ ngân hàng, Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp, thành viên Ban điều hành Ngân hàng HDBank - ông Trần Hoài Phương- nói: “Tôi nhận thấy rằng cơ chế hiện nay vẫn ổn khi các ngân hàng quan tâm chỉ số tín nhiệm của mình và sử dụng vùng vốn một cách hợp lý đối với room được giao”.
Tuy nhiên, trong một bối cảnh khi nền kinh tế cần phục hồi và phải tăng trưởng tốt, tạo ra giá trị cho xã hội và nền kinh tế, tăng trưởng GDP, cũng như cải thiện túi tiền của người đi làm và của nhà đầu tư cần một nguồn lực rất lớn. Không có cách nào khác, chúng ta phải chạy nhanh hơn và để làm được điều đó phải cần nhiều vốn hơn, tăng trưởng tín dụng cần mạnh mẽ hơn.
Bên cạnh hạn mức tín dụng hiện tại, bản thân các ngân hàng cần phải quan tâm tới chất lượng tài chính của mình để đạt được điểm tín nhiệm không chỉ đối với NHNN mà đối với các định chế tài chính nước ngoài.
NGỌC DIỆP