Nguy cơ nhiều doanh nghiệp ngừng hoạt động
Quyết định trên sẽ khiến KMN và khách hàng CNG của KMN bao gồm gần 500 xe buýt công cộng tại TP. Hồ Chí Minh cùng hàng trăm doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng CNG đứng trước nguy cơ phải ngừng hoạt động từ ngày 1.1.2026.
Theo nội dung văn bản số 803/KTA-KD, các hợp đồng mua bán khí giữa hai bên sẽ hết hiệu lực vào thời điểm 24 giờ ngày 31.12.2025 và PV GAS D sẽ chấm dứt giao nhận khí, đồng thời đề nghị KMN “chủ động phương án nhiên liệu thay thế”.
Trên thực tế, đây là tuyên bố chấm dứt nguồn cung là khí thiên nhiên duy nhất đối với KMN để sản xuất CNG cung cấp cho các khách hàng của KMN. Trong bối cảnh hiện nay, Tổng công ty Khí Việt Nam - CTCP (PV GAS) là đơn vị duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ thu gom, vận chuyển và phân phối khí từ các mỏ khí tại Việt Nam. KMN cho rằng đề xuất “tự tìm phương án thay thế” trong một thời gian rất ngắn là không khả thi.
Thực tế hiện nay, tại Việt Nam không tồn tại bất kỳ nguồn cung khí thiên nhiên thương mại nào khác ngoài hệ thống do PV GAS quản lý. Việc chấm dứt cung cấp khí trong điều kiện độc quyền tuyệt đối này đặt KMN và các khách hàng đang sử dụng CNG vào tình thế không có lựa chọn thay thế về mặt kỹ thuật và thương mại.
Hiện nay, KMN đang cung cấp CNG cho nhiều doanh nghiệp sản xuất trong các lĩnh vực thép, kim loại, gạch men, gốm sứ, thủy tinh, thực phẩm và dệt nhuộm… đồng thời cung cấp nhiên liệu cho gần 500 xe buýt công cộng tại TP. Hồ Chí Minh. Toàn bộ các khách hàng này nằm xa hệ thống đường ống khí, phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn CNG do KMN cung cấp. Nếu nguồn khí bị cắt, hoạt động sản xuất sẽ bị gián đoạn, chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng và giao thông công cộng có nguy cơ tê liệt.
Nguồn khí thiên nhiên hiện nay, KMN đang nhận từ PV GAS D tại khu công nghiệp Mỹ Xuân (Phú Mỹ) và Hiệp Phước (TP. Hồ Chí Minh) để nén thành CNG. KMN đang cung cấp CNG cho nhiều doanh nghiệp công nghiệp trong đó có các nhà máy thép, kim loại, gạch men, gốm sứ, thủy tinh, thực phẩm và dệt nhuộm. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm khoảng 20 doanh nghiệp trong hệ sinh thái của Tập đoàn Sojitz tại Việt Nam, cũng đang sử dụng CNG do KMN cung cấp. Theo số liệu hoạt động, riêng năm 2024, KMN đã cung cấp khoảng 146 triệu Sm³ CNG, phục vụ hàng trăm khách hàng trong các khu công nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, Cần Thơ ..., qua đó tạo việc làm gián tiếp cho hàng chục nghìn lao động tại các doanh nghiệp sử dụng CNG. Tổng giá trị mà các doanh nghiệp này sản xuất ra mang lại doanh thu cho nền kinh tế hàng trăm ngàn tỷ đồng.
Khả năng gây ra hệ lụy tiêu cực rất lớn
Nếu việc ngừng cung cấp CNG xảy ra, chỉ một số ít các doanh nghiệp buộc phải chuyển sang các loại nhiên liệu khác với chi phí cao hơn, rất nhiều doanh nghiệp phải dừng sản xuất do hệ thống công nghệ đã đầu tư chỉ sử dụng được CNG. Hệ quả là hoạt động kinh tế khu vực bị ảnh hưởng, môi trường đầu tư bị ảnh hưởng và người lao động đứng trước nguy cơ mất việc làm.
Đối với giao thông công cộng, gần 500 xe buýt sử dụng CNG tại TP. Hồ Chí Minh, hiện đang phục vụ khoảng 80.000 lượt hành khách mỗi ngày, sẽ phải dừng hoạt động nếu nguồn CNG bị cắt, và trong thời gian ngắn chưa thể có đủ nguồn xe sử dụng nhiên liệu khác thay thế. Nếu bổ sung bằng các xe sử dụng dầu sẽ làm chi phí vận hành tăng từ 30 đến 40%, gia tăng áp lực lên ngân sách trợ giá của Thành phố, đồng thời làm tăng phát thải khí nhà kính, đi ngược lại định hướng phát triển giao thông xanh và mục tiêu Net Zero đến năm 2050 của Việt Nam.
Về môi trường đầu tư, Tập đoàn Sojitz - một trong các tập đoàn thương mại lớn nhất Nhật Bản, đã đầu tư hàng chục triệu USD vào hệ sinh thái CNG tại Việt Nam - đã chính thức lên tiếng cảnh báo vụ việc "ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của các nhà đầu tư Nhật Bản" vào Việt Nam.
Trước dư luận của các doanh nghiệp về việc PV GAS D cắt nguồn cung khí, trả lời trên một số trang báo, doanh nghiệp này cho biết các nguồn khí trong nước đang suy giảm. Hàng năm, nguồn khí thiên nhiên được ưu tiên cung cấp cho sản xuất điện trong đó có tính đến phương án có thể giảm sản lượng khí cấp cho các hộ tiêu thụ khác nếu cần thiết nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Để đảm bảo nguồn cung cấp ổn định, PV GAS D đã chủ động bổ sung nguồn khí thiên nhiên nhập khẩu cung cấp cho các khách hàng. Tuy nhiên, vấn đề mức giá có chênh lệch giữa khí nhập khẩu và khí nội địa có thể gây thiệt hại lớn cho khách hàng doanh nghiệp thì không được PV GAS D đề cập tới.
Nhã Thanh