-Thưa ông, vì sao Việt Nam cần ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo (AI) tại thời điểm này?
Theo tôi, đây là thời điểm Việt Nam cần thiết phải có Luật Trí tuệ nhân tạo vì ít nhất ba lý do sau:
Thứ nhất, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong đó đặt ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam đạt được mục tiêu thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh yêu cầu phát triển mạnh mẽ ứng dụng trí tuệ nhân tạo dựa trên dữ liệu lớn đối với các ngành, lĩnh vực quan trọng.
Để hiện thực hóa mục tiêu, chiến lược nêu trên, việc ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo nhằm tạo ra hành lang pháp lý để thúc đẩy sự phát triển có trách nhiệm của hệ sinh thái AI tại Việt Nam.
Ông Trần Văn Trí – Giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông Luật Việt Nam (LuatVietnam.vn)
Thứ hai, nhìn vào thực tế có thể thấy các hệ thống AI, nhất là AI tạo sinh, đang ở thời kỳ phát triển bùng nổ và can thiệp sâu vào đời sống số, từ dữ liệu cá nhân cho tới mọi loại thông tin trên internet. Nếu chúng ta không sớm xây dựng một khuôn khổ pháp lý riêng, quy định rõ mức độ rủi ro, phân định trách nhiệm giữa các chủ thể và cơ chế bảo vệ quyền con người, thì các hành vi lạm dụng trí tuệ nhân tạo xâm phạm quyền lợi cá nhân, tổ chức sẽ ngày càng nhiều và rất khó xử lý thấu đáo.
Thứ ba, một đạo luật rõ ràng, minh bạch sẽ tạo niềm tin cho nhà đầu tư, giúp doanh nghiệp yên tâm phát triển sản phẩm “Make in Vietnam” và giúp nước ta bắt kịp xu hướng AI của thế giới, không bị tụt hậu trong cuộc đua công nghệ.
-Hiện nay, vì chưa có Luật điều chỉnh do đó tạo những khoảng trống pháp lý trong quản lý và ứng dụng AI. Điều này sẽ bất lợi gì cho doanh nghiệp cũng như người dùng phải đối mặt với rủi ro như thế nào?
Hiện nay, do chưa có luật điều chỉnh trực tiếp nên việc quản lý và ứng dụng AI tại Việt Nam đang tồn tại những khoảng trống pháp lý, kéo theo bất lợi đối với cả doanh nghiệp và người dùng.
Là một doanh nghiệp triển khai AI để phát triển ứng dụng AI Luật - Trợ lý LuatVietnam.vn, chúng tôi cũng gặp phải những khó khăn chung của các doanh nghiệp triển khai AI khác, như: khó xác định phạm vi trách nhiệm trong an toàn phòng chống rủi ro; khi xây dựng quy trình kiểm soát rủi ro, bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư thiếu quy định làm cơ sở theo một chuẩn mực thống nhất; từ đó có thể đưa ra điều khoản hợp đồng, chính sách sử dụng dịch vụ vừa bảo vệ người dùng, vừa bảo vệ doanh nghiệp…
Về phía người dùng, khoảng trống pháp lý về AI khiến họ khó được bảo vệ an toàn cũng như không thấy được trách nhiệm phối hợp cùng doanh nghiệp, cơ quan quản lý để xây dựng môi trường AI an toàn, đáng tin cậy và có trách nhiệm.
- Với những thay đổi rất nhanh chóng về trí tuệ nhân tạo trên toàn cầu, dự thảo Luật cần quy định theo hướng như thế nào để tránh tình trạng vừa ban hành đã lạc hậu?
Theo góc nhìn của một doanh nghiệp đang trực tiếp triển khai AI, dự thảo Luật không nên đi quá sâu vào chi tiết kỹ thuật, vì công nghệ thay đổi từng ngày. Luật nên ở mức “khung” - quy định rõ nguyên tắc chung về bảo vệ dữ liệu, an toàn, trách nhiệm, minh bạch… còn những quy định cụ thể thì để Chính phủ, và các bộ ngành hướng dẫn và linh hoạt điều chỉnh.
Dự thảo Luật cũng cần đưa ra các quy định quản lý hệ thống trí tuệ nhân tạo theo mức độ rủi ro. Khi có sự phân loại rõ ràng kèm theo nghĩa vụ tương ứng, doanh nghiệp sẽ biết mình đang ở “nhóm nào”, phải đáp ứng những yêu cầu gì. Như vậy sẽ giảm bớt được gánh nặng cho các doanh nghiệp phát triển hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro thấp, vừa giúp Nhà nước tập trung nguồn lực giám sát chặt chẽ hơn với các hệ thống AI có tác động lớn đến quyền, lợi ích của người dân và doanh nghiệp.
Tôi đề xuất nên có cơ chế “Sandbox pháp lý”, cho phép doanh nghiệp thử nghiệm AI trong môi trường được kiểm soát từ 1- 3 năm mà không bị phạt (như Singapore, UAE, Anh). Kết quả sandbox sẽ là căn cứ để các cơ quan quản lý nhà nước tham khảo và điều chỉnh quy định pháp luật về AI.
-Luật AI nên có phạm vi điều chỉnh như thế nào? mô hình quản lý AI nên theo hướng linh hoạt hay chặt chẽ để bảo đảm an toàn?
Luật AI trước hết cần xác lập phạm vi điều chỉnh rõ ràng, tập trung vào những nội dung bảo đảm an toàn, minh bạch và trách nhiệm trong toàn bộ vòng đời của hệ thống AI. Một khung pháp lý đầy đủ phải đi kèm với các quy chuẩn đạo đức và cơ chế phối hợp giữa người dùng, nhà phát triển và cơ quan quản lý, nhằm hình thành môi trường ứng dụng AI an toàn, đáng tin cậy.
Về quy chuẩn đạo đức, luật cần dựa trên 5 trụ cột cơ bản: Minh bạch và khả năng giải thích; Công bằng và không thiên vị; Tôn trọng quyền riêng tư; An toàn và bảo mật; Trách nhiệm và kiểm soát.
Về khung pháp lý, cần xây dựng cơ chế phân loại ứng dụng AI theo mức độ rủi ro, từ thấp đến cao, tương ứng với mức độ quản lý khác nhau. Việc phân loại này giao trách nhiệm cho các cơ quan quản lý xây dựng trên cơ sở tham gia ý kiến của xã hội cho phù hợp. Không nên giao cho doanh nghiệp tự phân loại sẽ bị ảnh hưởng ý thức chủ quan, thiếu thống nhất. Như thế vừa chặt chẽ trong quản lý, vừa linh hoạt cho nhà phát triển cũng như người dùng.
Như vậy, mô hình quản lý phù hợp là kết hợp giữa chặt chẽ và linh hoạt: chặt chẽ ở nhóm ứng dụng rủi ro cao để bảo đảm an toàn, nhưng linh hoạt ở các ứng dụng phổ thông để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
-Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi như thế nào cho doanh nghiệp tham gia thị trường trí tuệ nhân tạo?
Tại Điều 32 của dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo, tôi đã thấy nhiều chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp, như: Ưu tiên trong mua sắm công đối với sản phẩm, dịch vụ trí tuệ nhân tạo do tổ chức, cá nhân trong nước phát triển và làm chủ công nghệ; Tiếp cận các chính sách ưu đãi tài chính, thuế, tín dụng, giá điện và công cụ hỗ trợ theo Điều này và quy định của Chính phủ;
Tôi cho rằng, khung chính sách ưu đãi của Nhà nước dành cho doanh nghiệp tham gia phát triển và cung ứng sản phẩm, dịch vụ trí tuệ nhân tạo hiện nay về cơ bản đã tương đối đầy đủ và theo hướng khá thông thoáng. Vấn đề mấu chốt không còn nằm chủ yếu ở “thiếu cơ chế” mà là ở cách thức các cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện những quy định đó trong thực tiễn, đặc biệt là trong lĩnh vực mua sắm công đối với sản phẩm, dịch vụ AI.
Các bộ, ngành, địa phương cần chuyển mạnh từ tư duy “quản lý cho chặt” sang tư duy tạo thuận lợi, đồng hành cùng doanh nghiệp. Đồng thời, các cơ quan Nhà nước cũng cần chủ động thiết kế các gói thí điểm, đặt hàng nhiệm vụ khoa học - công nghệ, dự án chuyển đổi số… để doanh nghiệp AI có “sân chơi” thử nghiệm và triển khai sản phẩm trong môi trường pháp lý an toàn, kiểm soát được rủi ro.
Chỉ khi chính sách ưu đãi được thực thi nghiêm túc, nhất quán và đi kèm với tinh thần hỗ trợ thực chất từ phía cơ quan nhà nước, doanh nghiệp mới thực sự yên tâm đầu tư, mở rộng quy mô và gắn bó lâu dài với thị trường trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam.
Ngoài ra, cần quy định các sản phẩm AI và các doanh nghiệp phát triển AI là các doanh nghiêp đổi mới sáng tạo. Sản phẩm AI là những sản phẩm đổi mới sáng tạo để doanh nghiệp phát triển được hưởng các ưu đãi quyền lợi như trong các nghị quyết về đổi mới khoa học công nghệ, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong triển khai các dự án, nhiệm vụ khoa học công nghệ sử dung ngân sách nhà nước. Từ đó, các doanh nghiệp phát triển AI có điều kiện tham gia rộng rãi đưa sản phẩm vào phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước
-Xin cám ơn ông!
Bình An (thực hiện)