Ngày 9.10, Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao (HVNCLC) tổ chức Company Tour tại xã Giao Long, tỉnh Vĩnh Long (thuộc địa phận huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre trước đây).
Chương trình quy tụ gần 100 giảng viên, sinh viên, chuyên gia thị trường, phóng viên và đại diện các hợp tác xã, đến tham quan vườn dừa của nông dân và 2 nhà máy chế biến trái cây xuất khẩu của doanh nghiệp. Tại đây, khách tham quan được trực tiếp chứng kiến quy trình sản xuất, đồng thời nghe chia sẻ về hành trình chinh phục một trong những thị trường khó tính nhất thế giới là Mỹ.
Nghị quyết 57 và 68 mở đường cho “Công trình xanh - tiêu dùng xanh”
Phát biểu tại tọa đàm trong chương trình, bà Vũ Kim Hạnh, Giám đốc Trung tâm BSA, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp HVNCLC cho biết đây là hoạt động mở đầu cho chuỗi chương trình kéo dài một năm rưỡi mang tên “Công trình xanh - tiêu dùng xanh”. Theo bà Hạnh, “công trình” bao gồm cả sản phẩm và dịch vụ, còn “tiêu dùng” là từ khóa luôn gắn liền với HVNCLC.
Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp HVNCLC phát biểu
Bà Vũ Kim Hạnh khẳng định: “Người tiêu dùng chỉ thực sự gắn bó với những sản phẩm chất lượng cao. Tuy nhiên, thực tế hiện nay là dù người tiêu dùng ủng hộ hàng xanh, nhưng vẫn còn ít người sẵn sàng chi trả vì giá bán cao hơn”.
Chính vì vậy, chương trình hướng tới kết nối sinh viên với doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy vai trò của Nhà nước trong việc tạo nền tảng chính sách. Bà Vũ Kim Hạnh nhấn mạnh: “Nếu không có Nghị quyết 57 và 68 - những chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế tư nhân, thì khó có thể có chương trình hôm nay. Ba nhà: Nhà nông, nhà doanh nghiệp và nhà trường phải gắn bó chặt chẽ, cùng phát triển hoạt động quan trọng là nghiên cứu và phát triển (R&D). Không có R&D thì không có phát minh, không có đổi mới sáng tạo, và do đó không thể có chương trình xanh hóa sản phẩm”.
Chất lượng và công nghệ giúp dừa đứng vững trên thị trường Mỹ
Kể lại hành trình 10 năm đưa trái dừa Việt Nam sang Mỹ, bà Nguyễn Thị Huế, đại diện Vina T&T Group, chia sẻ trong buổi tọa đàm: "Cách đây 10 năm, khi sang Mỹ và uống thử dừa Thái Lan, chúng tôi đã tự hỏi: Tại sao dừa Việt Nam cũng ngon, cũng ngọt, giá tốt mà thị trường Mỹ lại không biết đến? Từ đó, chúng tôi quyết tâm đưa dừa Việt sang Mỹ, không phải bằng con đường cạnh tranh giá rẻ, mà bằng chất lượng cao nhất, với trái dừa xiêm xanh Bến Tre”.
Bà Nguyễn Thị Huế chia sẻ một số chuyện về xuất khẩu ngay tại vườn dừa - Ảnh Bùi Tú
Theo bà Huế, dừa Việt Nam có vị ngọt thanh, khác với vị ngọt gắt của dừa Thái Lan. Để chinh phục khẩu vị mới này, công ty phải tặng dừa miễn phí tại các siêu thị Mỹ, cho người tiêu dùng làm quen dần. Nhờ chiến lược kiên trì, hiện nay dừa Việt đã chiếm 50% thị phần tại Mỹ, ngang ngửa Thái Lan, với giá bán khoảng 12 USD/thùng 9 trái đã bật nắp.
“Giờ đây, chúng tôi tự tin khẳng định dừa Việt Nam hoàn toàn có thể cạnh tranh với bất kỳ đối thủ nào trên thế giới. Không chỉ ngon, qua các kiểm nghiệm khoa học, dừa Việt có hàm lượng vi chất tốt cho sức khỏe thuộc loại cao nhất toàn cầu”, bà Huế nói.
Để giữ trái dừa tươi nguyên từ vườn Bến Tre đến tay người tiêu dùng Mỹ, công ty sử dụng công nghệ bảo quản lạnh tiên tiến. Nhờ quy trình kiểm soát nhiệt độ nghiêm ngặt, trái dừa có thể tươi tới 90 ngày.
Mỗi ngày, nhờ dây chuyền công nghệ hiện đại, công ty có thể chế biến đến 20.000 trái dừa, tương đương một container xuất khẩu. Đây là lợi thế giúp giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Bài toán giữ chất lượng trước biến đổi khí hậu và xâm mặn
Bà Đinh Thị Hạnh Tâm đặt câu hỏi
Trong tọa đàm, bà Đinh Thị Hạnh Tâm, CEO & Founder của VFARM, đặt câu hỏi về cách doanh nghiệp cùng nông dân ứng phó với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, hai yếu tố đang ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng dừa.
Bà Huế thừa nhận: “Sản phẩm chế biến đã chịu ảnh hưởng, nhưng trái tươi như dừa còn chịu tác động gấp nhiều lần, đặc biệt về độ ngọt và kích cỡ. Chúng tôi luôn đồng hành cùng bà con nông dân, nhưng đây là thách thức lớn mà chỉ có thể giảm thiểu, chứ không loại bỏ hoàn toàn”.
Ông Nguyễn Đình Toàn, Giám đốc Nhà máy Vina T&T nhấn mạnh tầm quan trọng của phối hợp giữa nhà nước - nông dân - doanh nghiệp: “Chúng tôi ký hợp đồng bao tiêu với nông dân, đồng thời ký thêm với cơ quan quản lý để chủ động trong vấn đề tưới tiêu, hạn mặn. Khi nông dân tuân thủ quy trình chung, doanh nghiệp và nông dân cùng nhau hạn chế được hàng dưới chuẩn”.
Từ góc độ người trồng dừa, anh Cung, thành viên Hợp tác xã Nông nghiệp Tiên Thủy (Châu Thành, Bến Tre trước đây), chia sẻ: “Ở địa phương, hạn mặn thường kéo dài 2 - 3 tháng, có năm lên đến 6 tháng. Với cây bưởi, nước có độ mặn dưới 2‰ còn tưới được, cao hơn thì không thể. Vì vậy, chúng tôi rất cần sự hỗ trợ kỹ thuật từ doanh nghiệp và trung tâm khuyến nông”.
Anh nói thêm: “Nếu nông dân vẫn canh tác theo tập quán cũ, không theo quy trình chuẩn, sản phẩm sẽ không đạt tiêu chí xuất khẩu, hàng bị loại nhiều và mất giá trị. Mong rằng các doanh nghiệp và hợp tác xã sẽ tiếp tục đồng hành cùng nông dân, để sản phẩm chủ lực của địa phương ngày càng vươn xa”.
Vẫn cần áp dụng công nghệ nhiều hơn
Trong buổi tọa đàm, ông Huỳnh Nhật Nghĩa, Phó trưởng khoa Quản trị kinh doanh, Trường đại học Kinh tế tài chính TP.HCM, nhận định doanh nghiệp còn nhiều dư địa để chuyển đổi số.
Một vài khâu trong quá trình sản xuất chế biến vẫn còn mang nặng tính thủ công - Ảnh: Bùi Tú
“Theo quan sát, vẫn còn những khâu sản xuất, chế biến dừa mang tính thủ công, hoàn toàn có thể thay thế bằng máy móc và số hóa quy trình. Dù đầu tư công nghệ ban đầu tốn kém, nhưng hiệu quả lâu dài sẽ cao hơn nhiều lần. Trong bối cảnh Nhà nước đang khuyến khích mạnh mẽ chuyển đổi số, đây là cơ hội vàng để tăng năng suất”, ông Nghĩa đề xuất.
Ngoài ra, ông Huỳnh Nhật Nghĩa cho biết hiện mỗi ngày cơ sở chế biến thải ra từ 5 - 10 tấn vỏ dừa, song lượng “rác” này vẫn chưa được tận dụng hiệu quả. Ông nhận định: “Đây là một cơ hội rất tốt cho các bạn sinh viên nghiên cứu, tìm ra cách tái chế hoặc khai thác nguồn phụ phẩm này để tạo ra giá trị mới”.
Cơ sở chế biến thải bỏ nhiều phụ phẩm từ vỏ dừa, có thể được tận dụng khai thác - Ảnh: Bùi Tú
Ông nói: “Khi chúng ta nói đến phát triển xanh, điều đó không chỉ nằm ở sản phẩm cuối cùng, mà còn ở khả năng tận dụng phụ phẩm, phế phẩm để biến chúng thành những sản phẩm hữu ích cho xã hội. Đây hoàn toàn có thể trở thành một hướng nghiên cứu mới cho sinh viên”.
Đánh giá về chuyến đi, ông Nghĩa cho rằng đây là một hoạt động rất ý nghĩa, giúp giảng viên và sinh viên có cái nhìn thực tế hơn về hành trình nông sản Việt Nam vươn ra thị trường Mỹ, đồng thời hiểu rõ hơn những thách thức mà doanh nghiệp đang đối mặt.
“Chúng tôi kỳ vọng sẽ có những chuyến đi dài hơi hơn, chuyên sâu hơn, thậm chí phối hợp cùng doanh nghiệp, để sinh viên không chỉ dừng lại ở việc trải nghiệm, mà còn trực tiếp tham gia giải quyết các bài toán thực tế của doanh nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường”, ông Nghĩa nhấn mạnh.
Bùi Tú