Hành trình hồi sinh âm nhạc truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong đời sống đương đại

Hành trình hồi sinh âm nhạc truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong đời sống đương đại
3 giờ trướcBài gốc
Bà con dân tộc M'nông, xã Buôn Triết, tỉnh Đắk Lắk múa cồng chiêng phục vụ khách du lịch. Ảnh: Việt Bắc
Âm thanh của đại ngàn
Trước đây, khi những con đường trải nhựa và ánh điện sáng chưa mở lối, len rừng vào từng buôn làng, người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên sống trong thế giới của tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh. Bà con ở đây tin rằng, mỗi dòng suối, mỗi ngọn núi, mỗi cây cổ thụ đều có linh hồn, những vị Yang (thần linh) uy nghiêm luôn dõi theo và chi phối cuộc sống thường ngày. Muốn làm tốt bất kỳ việc gì, từ dựng nhà, phát rẫy, gieo mạ đến cưới hỏi, cúng sức khỏe đều phải xin phép các Yang.
Từ niềm tin ấy, âm thanh trở thành cầu nối giữa con người và trời đất. Người xưa quy ước với nhau như cầu xin vị thần này thì dùng bài chiêng này, mời gọi vị thần kia thì tấu âm khác, nhịp điệu khác. Cứ thế, hàng chục bài chiêng ra đời, mỗi bài là một “bản sắc lệnh” riêng. Ở buôn gần, buôn xa, chỉ cần nghe tiếng cồng chiêng vang vọng qua núi là người ta biết ngay sắp diễn ra sự kiện vui hay buồn, lễ lớn hay lễ nhỏ. Theo nhạc sĩ Linh Nga Niê Kdam, một người con của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk, các bài chiêng được chia thành các nhóm, như nhóm mời gọi các vị thần linh (Rieo Yang, Drong Yang), nhóm thông báo với cộng đồng (ieo wit hgum), đón khách (Drông tuê)...
Ngoài ra, điều kỳ diệu nhất là ở những bài chiêng mô phỏng tiếng vọng của thiên nhiên như tiếng thác đổ (Drai ênai), tiếng mưa đá (Yan pliêr), tiếng chong chóng quay (Kong dar, Chiriria)... Những thanh âm ấy như kể lại câu chuyện ngàn đời của đại ngàn, khi rừng thở, gió hát, nắng reo, sông suối trò chuyện. “Âm nhạc Tây Nguyên, từ thuở ban sơ, không chỉ để nghe, mà còn để cảm, để sống cùng rừng núi, để hòa mình vào nhịp mạch của thiên nhiên” - Nhạc sĩ Linh Nga Niê Kdam cho biết thêm.
Kho tàng nhạc cụ độc đáo
Từ chiếc cồng, chiếc chiêng bằng đồng ban đầu, người Tây Nguyên đã sáng tạo thêm vô vàn nhạc cụ từ tre nứa của rừng, lấy âm của chiêng làm chuẩn (hluê ching). Khi lễ hội kết thúc hay sau những ngày lao động, thanh niên tụ họp, mang nhạc cụ ra hòa tấu, hát kể, khiến buôn làng rộn ràng như một sân khấu tự nhiên của đại ngàn.
Kèm theo đó là những lời hát kể sử thi (Khan) về các câu chuyện thơ trường thiên, kể về cội nguồn Ê Đê, về những chàng Dam Sam dũng mãnh, những nàng H’Bia xinh đẹp. Tiếng hát nối đêm này sang đêm khác, hàng trăm người say mê lắng nghe như uống từng lời kể. Đặc biệt, đối với đồng bào dân tộc thiểu số Ê Đê là một trong số ít tộc người có hệ thống nhạc cụ cổ truyền phong phú nhất Việt Nam. Âm nhạc ở đây tinh tế và đa dạng đến mức mỗi loại nhạc cụ gắn với một chức năng, một tâm trạng riêng, gồm: loại nhạc cụ để tự sự, tâm sự gồm các loại như đing buôt, tak tar, đing tút, goc dùng cho các chàng trai gửi tâm tình, nơi người già gửi nỗi nhớ; loại nhạc cụ tỏ tình gồm có các nhạc cụ như goong, kni, bro khi mà vài giai điệu khẽ ngân là đủ để trái tim người con gái chao nghiêng; nhạc cụ dùng cho tang lễ có các loại đing năm, đing tút với những âm thanh chậm buồn tiễn biệt người khuất; nhạc cụ sử dụng như hiệu lệnh chiến trận có ky pah mà khi sử dụng sẽ tạo ra những âm thanh thôi thúc bước chân, nâng cao ý chí.
Xưa kia, chính vì lễ lạt diễn ra liên miên trong suốt nông lịch và vòng đời nên thanh niên Tây Nguyên lớn lên cùng âm nhạc. Từ lễ thổi tai báo với cộng đồng sự ra đời của một em bé đến lễ trưởng thành, cưới hỏi, làm nhà, cúng lúa mới..., tiếng chiêng theo họ từng bước trưởng thành, nâng đỡ tâm hồn, bồi đắp cảm quan nghệ thuật. Tiếng chiêng không chỉ vang lên giữa đại ngàn, mà còn ngự trị trong trái tim mỗi người, như một phần máu thịt của bản sắc tộc người.
Tuy nhiên, có một thời gian dài, âm nhạc dân tộc ở Tây Nguyên đứng trước nguy cơ mai một, khi giới trẻ không còn mặn mà với nhạc cụ truyền thống. Nguyên nhân trước hết là tác động mạnh mẽ của đời sống hiện đại: sự bùng nổ của nhạc điện tử, mạng xã hội và các trào lưu giải trí khiến những giai điệu cổ truyền trở nên xa lạ. Nhiều em rời buôn làng đi học, đi làm, ít có điều kiện tiếp xúc môi trường văn hóa bản địa. Bên cạnh đó, lớp nghệ nhân lớn tuổi dần mai một, việc truyền dạy không thường xuyên khiến khoảng trống thế hệ ngày càng lớn. Sự thiếu thốn sân chơi văn hóa, không gian diễn tấu trong cộng đồng cũng làm nhạc cụ dân tộc khó tiếp cận hơn với thanh niên.
Già làng Tây Nguyên sử dụng nhạc cụ tù và. Ảnh: Việt Bắc
Hành trình hồi sinh mạnh mẽ
Âm nhạc truyền thống Tây Nguyên là sự kết tinh của tín ngưỡng, phong tục, tri thức bản địa được tích tụ qua hàng trăm năm. Nó không chỉ là âm thanh, mà là ký ức của dân tộc, là “hộ chiếu văn hóa” đưa bản sắc Tây Nguyên bước ra thế giới. Đặc biệt, kể từ khi UNESCO ghi danh Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, nhiều nghệ nhân và nhà nghiên cứu như nhạc sĩ Linh Nga Niê Kdam không giấu nổi xúc động. Đây không chỉ là niềm vinh dự, mà còn là lời nhắc về trách nhiệm gìn giữ kho tàng cha ông.
Theo nhạc sĩ Linh Nga Niê Kdam, kể từ dấu mốc ấy, nhận thức của cộng đồng đã thay đổi tích cực. Các chương trình truyền thông, tuyên truyền, vận động bảo tồn được đẩy mạnh. Nhiều địa phương tổ chức liên hoan cồng chiêng, lễ hội văn hóa dân tộc, không gian biểu diễn phục vụ du khách. Tại các thành phố trung tâm Tây Nguyên, các đội cồng chiêng trải nghiệm biểu diễn thường xuyên, đưa âm nhạc dân tộc đến gần công chúng hơn bao giờ hết. Không chỉ vậy, du lịch cộng đồng phát triển dựa trên giá trị văn hóa bản địa, trong đó, âm thanh nhạc cụ là điểm nhấn đặc biệt. Những đêm hội lửa trại, những buổi biểu diễn trong nhà dài, những lớp học làm đàn tre nứa... trở thành “đặc sản tinh thần” thu hút du khách trong và ngoài nước. Nhưng điều đáng mừng nhất lại đến từ chính buôn làng. Nhiều nghệ nhân đã tự nguyện mở lớp truyền dạy cồng chiêng, dạy đàn tre nứa, dạy hát kể Klei Khan cho lớp trẻ. Những đứa trẻ đang ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời lại say mê tập chiêng, khoác lên mình bộ trang phục truyền thống, trình diễn trước cộng đồng với ánh mắt tự hào.
Âm nhạc Tây Nguyên đang hồi sinh không chỉ trong lễ hội, trong chương trình biểu diễn, mà còn hồi sinh ngay trong đời sống hàng ngày của người dân. Đó là dấu hiệu một di sản trở lại đúng nơi nó thuộc về, đó chính là trong trái tim cộng đồng. Nếu trước đây, người ta lo sợ nhịp sống hiện đại sẽ khiến lớp trẻ xa dần những giá trị truyền thống, thì nay, mối lo đó đang dần được xua tan. Các em nhỏ, thanh thiếu niên biết lắng nghe và cảm thụ cái đẹp của âm thanh tộc người mình. Nhiều em còn xem việc đánh chiêng, thổi đing buôt, kể Khan là niềm kiêu hãnh một cách khẳng định bản sắc. Không chỉ trong các đêm văn nghệ, lớp trẻ Tây Nguyên còn tự tin mặc trang phục truyền thống trong lễ cưới, lễ hội, thậm chí trong sinh hoạt thường ngày. Đó là minh chứng cho sự sống lại bền vững của văn hóa bản địa, khi thanh âm truyền thống được trao cho đúng người giữ gìn: thế hệ tương lai.
Việt Bắc
Nguồn Biên Phòng : https://bienphong.com.vn/hanh-trinh-hoi-sinh-am-nhac-truyen-thong-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so-o-tay-nguyen-trong-doi-song-duong-dai-post498244.html