Trả tiền điện theo dạng thuê bao có lợi cho người dùng
Theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để áp dụng cơ chế giá hai thành phần (giá công suất và điện năng) từ ngày 1/1/2026 đối với khách hàng sử dụng điện nhiều - có lượng tiêu thụ trung bình từ 200.000kWh/tháng và ở cấp điện áp 22kV (đấu nối trung áp).
Đây là những khách hàng được áp dụng cơ chế mua bán điện trực tiếp DPPA theo nghị định 80 của Chính phủ. Thực hiện theo chỉ đạo, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và đơn vị tư vấn cũng đang hoàn thiện đề án về lộ trình áp dụng giá điện hai thành phần để trình các cấp trước ngày 15/9 theo yêu cầu của bộ trưởng Bộ Công Thương.
Giá điện hai thành phần trước mắt sẽ áp dụng cho đơn vị tiêu thụ điện năng lớn.
Với công thức giá điện một thành phần tính theo sản lượng tiêu thụ, đặc biệt là với khách hàng sinh hoạt tính theo bậc thang, tiền điện trong các tháng vừa qua tăng cao đột biến. Do đó chi phí trả cho lượng điện sử dụng hằng tháng đang ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong rổ chi tiêu của gia đình.
PGS.TS Trần Văn Bình, giảng viên cao cấp Đại học Bách khoa Hà Nội phân tích, nếu chỉ bán điện theo một mức giá duy nhất sẽ dẫn tới nhiều bất cập. Ông lấy ví dụ một hộ đăng ký công suất 24 kW nhưng chỉ dùng 1 giờ/ngày, tức tổng cộng 24 kWh, trong khi một hộ khác đăng ký 1 kW nhưng dùng liên tục 24 giờ cũng tiêu thụ 24 kWh.
Nếu áp cùng một giá điện cho cả hai, rõ ràng chi phí đầu tư công suất ngành điện phải bỏ ra là khác nhau, dẫn đến bất công và mất cân đối. Vì vậy, bắt buộc phải tách biểu giá thành hai phần: giá công suất và giá điện năng. "Điều quan trọng là phải xác định chính xác nhóm khách hàng thí điểm để bảo đảm mục tiêu minh bạch và hiệu quả" - ông nhấn mạnh.
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu năng lượng và tăng trưởng xanh Hà Đăng Sơn, cho rằng để có được thị trường điện tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch, triển khai cơ chế mua bán điện trực tiếp, một trong những công cụ quan trọng là phải áp dụng giá điện hai thành phần. Tức là khách hàng sẽ đăng ký công suất hằng tháng và trả mức tiền tương ứng cho nhà cung cấp, như gói dịch vụ viễn thông.
Khi đó khách hàng được chọn công suất lẫn nhà cung cấp và sẽ tối ưu được hệ thống; không có chuyện giá theo bậc thang, trợ giá, bù chéo giữa các nhóm khách hàng. "Muốn làm được, yếu tố tiên quyết là phải có hạ tầng điện thông minh, với hệ thống đo đếm công suất chuẩn xác và rõ mã người mua, người bán, địa chỉ.
Khi đó người ở miền Bắc có thể mua điện của công ty phía Nam. Tuy nhiên, do hiện nay hạ tầng của chúng ta chưa đồng đều nên trước tiên có thể thí điểm ở những nơi thuận lợi với hạ tầng sẵn sàng, sau đó có thể thực hiện phổ cập về giá điện hai thành phần trên toàn quốc theo một lộ trình phù hợp", ông Sơn khuyến nghị.
Bài học từ cách tính giá điện của Thái Lan
Chuyên gia năng lượng Đào Nhật Đình cho biết, giá điện 2 thành phần được hiểu là cơ cấu giá phải trả cho công suất đăng ký sử dụng và điện năng thực tế sử dụng. Đây là điểm khác biệt so với cơ chế giá hiện nay là giá bán theo một thành phần điện năng tiêu dùng, tức là tính theo lượng điện năng thực tế sử dụng.
Cách tính giá điện hai thành phần ở Thái Lan rất đơn giản mà Việt Nam có thể áp dụng. Thái Lan ưu tiên nhóm có trung bình tiêu thụ điện hàng tháng trong năm đến 150 kWh (còn gọi là hộ nghèo), với giá khá ưu đãi.
Nối tiếp mức đến 150 kWh/tháng là nhóm sử dụng điện nhiều hơn, trung bình trên 150 kWh/tháng. Đây là nhóm phổ biến mà chúng ta quan tâm và dùng để so sánh. Nhóm này chia làm 3 bậc (trong bảng dưới đây):
Giá điện dành cho hộ dân tiêu thụ trung bình tháng trên 150 kWh:
Mỗi tháng, dù không dùng một kWh nào thì nhóm 1 cũng phải thanh toán 8,19 baht, nhóm 2 cũng phải thanh toán 24,64 Baht phí dịch vụ cho công ty phân phối điện. Phí này còn gọi là phí đấu nối công tơ.
Nguyên nhân giá điện bán lẻ Thái Lan cao hơn hẳn so với Việt Nam, vì Thái Lan chủ yếu dùng điện khí tự nhiên, chiếm 53% sản lượng điện. Giá khí bị ảnh hưởng nặng do đợt tăng từ cuối 2021 và đặc biệt vọt lên cao khi xảy ra xung đột Nga - Ukraina. Hiện nay giá khí đã ổn định, nhưng vẫn ở mức cao.
Theo chuyên gia Đào Nhật Đình, khi thị trường điện đã trưởng thành, cần có hệ thống giá điện 2 thành phần. Trong đó, giá điện công suất chủ yếu bù đắp cho chi phí cố định của nhà máy, còn giá điện năng chủ yếu bù đắp chi phí biến đổi.
Hiện khách hàng công nghiệp và thương mại ở Trung Quốc đã phải trả theo giá điện 2 thành phần. Một phần là dịch vụ cố định hằng tháng dựa theo công suất trạm biến áp của họ. Họ phải ký hợp đồng tiêu thụ điện và chịu phạt nếu sử dụng vượt, hay thấp hơn công suất đã ký. Trước mắt, giá điện có thể tăng một chút với khách hàng công nghiệp và thương mại. Nhưng về lâu dài, nhờ hệ thống điện ổn định, minh bạch tạo ra cơ chế cạnh tranh giữa các nguồn điện, thúc đẩy tăng trưởng các nguồn năng lượng mới nên sẽ có tác động tích cực đến chi phí điện của người dùng cuối.
Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, nhu cầu dùng điện để phát triển kinh tế lớn, bắt buộc phải xây dựng và thí điểm sớm cơ chế giá 2 thành phần này. Dù cho năng lượng tái tạo phát triển mạnh thì vẫn không thay đổi bản chất thiếu ổn định. Thế nên, các dự án thủy điện, điện than hay điện hạt nhân sau này là nguồn điện nền quan trọng, phải chạy ngay cả khi không phát điện hoặc phát dưới công suất. Nếu chỉ tính giá điện theo điện năng, nguy cơ ngành điện phải bù lỗ còn tiếp diễn.
Chuyên gia dự báo trong ngắn hạn, giá điện sản xuất và kinh doanh có thể tăng nhẹ khi cơ chế bù chéo bị xóa bỏ. Tuy nhiên, về dài hạn, khi hệ thống vận hành ổn định, biểu giá minh bạch sẽ khuyến khích cạnh tranh, buộc doanh nghiệp phải tiết kiệm năng lượng và nâng cao hiệu quả. Điều này phù hợp với xu hướng toàn cầu, khi nhiều quốc gia đã áp dụng cơ chế tương tự.
Tô Hội