Trong bối cảnh chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển mạnh mẽ như hiện nay, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trở nên cấp thiết.
Dựa trên kinh nghiệm và thực tiễn tại Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên (ICTU), Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng nhà trường đồng thời là Phó Chủ tịch Câu lạc bộ Khoa - Viện - Trường Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam (FISU) đã có những chia sẻ về việc đào tạo nguồn nhân lực công nghệ số và AI tại Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường gắn kết giữa đại học - doanh nghiệp, hướng đến xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia bền vững.
Bối cảnh và thực trạng đào tạo nguồn nhân lực
Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh việc đầu tư vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; Đề án Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035, định hướng đến 2045 do Thủ tướng Chính phủ ban hành tập trung vào đào tạo nhân lực chất lượng cao cho công nghệ cao. Nghị quyết 68-NQ/TW khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hợp tác với đại học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và thúc đẩy đổi mới.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa cho rằng, mặc dù nhiều cơ sở giáo dục đại học đang mở rộng quy mô đào tạo công nghệ số và AI nhưng còn rất xa để đạt được các chỉ tiêu đặt ra trong Đề án Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035, định hướng đến 2045, cả về số lượng lẫn chất lượng.
Theo Đề án, Việt Nam đặt mục tiêu tăng tốc đào tạo các lĩnh vực then chốt như công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI). Cụ thể, đến năm 2030, tỷ lệ người theo học các ngành STEM sẽ đạt 35% ở mỗi trình độ đào tạo, trong đó ít nhất 18% thuộc các ngành liên quan tới công nghệ số. Đồng thời, mỗi năm cần có khoảng 80.000 người tốt nghiệp các chương trình công nghệ thông tin và truyền thông.
Giai đoạn 2030-2035, quy mô đào tạo sẽ tiếp tục mở rộng, với tỷ lệ người theo học các ngành STEM nâng lên 40%, trong đó ít nhất 20% theo học các ngành công nghệ số, và số lượng tốt nghiệp hàng năm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông đạt 100.000 người.
Định hướng đến năm 2045, nguồn nhân lực STEM trình độ cao, chất lượng cao sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh chiến lược, giúp Việt Nam thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là các ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ số, AI và công nghệ sinh học. Hệ thống giáo dục đại học cũng phấn đấu vươn lên nhóm hàng đầu khu vực châu Á trong đào tạo và nghiên cứu STEM.
Từ thực tiễn tại Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên cũng như một số trường đại học tham gia chi hội FISU khu vực duyên hải, trung du, miền núi phía Bắc, vô vàn những yếu tố khó khăn hạn chế khả năng hợp tác của trường đại học và doanh nghiệp.
Một là chương trình đào tạo của các trường đại học chưa sát với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. Nhiều chương trình đào tạo trong các trường đại học còn mang tính lý thuyết, chậm cập nhật các xu hướng công nghệ mới và thiếu các môn học chuyên sâu, kỹ năng thực hành cùng các công cụ, framework (bộ khung công cụ) mà doanh nghiệp đang dùng. Hạn chế trong việc đưa các tình huống thực tế hoặc dự án thực tế vào quá trình giảng dạy.
Hai là sự thiếu liên kết chặt chẽ giữa trường đại học và doanh nghiệp. Hợp tác giữa trường và doanh nghiệp còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu và chưa bền vững.
Ba là hạn chế trong thực tập, thực hành và mô hình đào tạo "học đi đôi với hành". Sinh viên thiếu cơ hội thực tập tại các doanh nghiệp công nghệ, hoặc thực tập chỉ mang tính chất quan sát, không được giao các nhiệm vụ chuyên môn thực tế. Mô hình “co-op” (vừa học vừa làm tại doanh nghiệp) chưa phổ biến ở Việt Nam.
Bốn là đội ngũ giảng viên và chuyên gia còn thiếu và chưa được cập nhật kiến thức mới. Nhiều giảng viên chưa có kinh nghiệm thực tiễn trong môi trường doanh nghiệp công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực AI. Bên cạnh đó, sự tham gia của các chuyên gia đến từ doanh nghiệp trong vai trò giảng dạy hoặc cố vấn tại trường còn hạn chế.
Năm là thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ kết nối nhà trường - doanh nghiệp. Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo, hoặc hỗ trợ trường đại học phát triển chương trình đào tạo mới còn hạn chế. Đồng thời, chưa có nhiều các quỹ tài trợ nghiên cứu chung giữa trường và doanh nghiệp. Thủ tục hành chính trong việc ký kết, triển khai các thỏa thuận hợp tác còn phức tạp, tốn nhiều thời gian.
Sáu là khác biệt về kỳ vọng và tiêu chuẩn giữa doanh nghiệp - nhà trường. Doanh nghiệp mong muốn nhân sự “làm được việc ngay”, trong khi nhà trường mong muốn sinh viên được đào tạo nền tảng để có thể phát triển bền vững.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông (Đại học Thái Nguyên). Ảnh: ICTU.
“Những vấn đề nêu trên là khó khăn chung của hầu hết các trường đại học đào tạo về công nghệ số và AI. Tuy nhiên, các trường đại học ở ngoài Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh gặp thách thức lớn hơn, do đa số doanh nghiệp trong lĩnh vực này tập trung tại hai đô thị lớn. Thực tế đó làm giảm hiệu quả kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp, dễ dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm và thiếu sự phối hợp chặt chẽ.
Trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, nếu không huy động được sự tham gia của các trường đại học ở nhiều khu vực, vùng miền khác nhau để cùng giải quyết các bài toán lớn về đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều thách thức trong việc làm chủ công nghệ AI, dễ rơi vào tình trạng phụ thuộc vào các nền tảng nước ngoài.
Để làm chủ AI, Việt Nam không chỉ cần công nghệ mà còn cần dữ liệu - yếu tố cốt lõi để phát triển các mô hình trí tuệ nhân tạo mang bản sắc và giá trị riêng.
Trong đó, các trường đại học ở vùng miền, với lợi thế tiếp cận dữ liệu phong phú từ các khu vực địa lý đa dạng, đóng vai trò hết sức quan trọng. Các trường thành viên của FISU như Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên có thế mạnh trong việc thu thập dữ liệu kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương, từ đó góp phần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia - nền tảng then chốt để Việt Nam từng bước làm chủ công nghệ lõi AI, giảm phụ thuộc vào các nền tảng nước ngoài”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa cho hay.
Phó Giáo sư Nghĩa khẳng định rằng, dù không nằm ở thành phố lớn nhưng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên đã đạt được những thành tích đột phá, chứng minh rằng các trường đại học địa phương, đại học vùng có thể đóng góp đáng kể vào sự phát triển quốc gia.
Trong năm 2025, ICTU vinh dự là trường đại học duy nhất tại Việt Nam đạt 02 giải thưởng Sao Khuê do Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) và Bộ Khoa học và Công nghệ đồng tổ chức, với sản phẩm là hệ thống đào tạo kết hợp ứng dụng AI mang tên iBLS. Đây là một hệ thống sử dụng AI hỗ trợ tạo học liệu, sinh câu hỏi đánh giá và cá nhân hóa lộ trình học tập đảm bảo chuẩn đầu ra môn học chia nhỏ theo tiến trình.
Cũng trong năm 2025, ICTU đã triển khai dự án “Phim trường số Việt Nam”, là dự án tiên phong kết hợp giữa công nghệ số và nghệ thuật sáng tạo, mở ra một ngành nghề và lĩnh vực mới tại Việt Nam. Đây là mô hình hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, góp phần hiện thực hóa Nghị quyết 57-NQ/TW và Đề án Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035, định hướng đến 2045.
Dự án không chỉ thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa - nội dung số mà còn tạo nền tảng đào tạo hàng nghìn nhân lực sáng tạo chất lượng cao, phục vụ phát triển kinh tế số quốc gia.
Sản phẩm đầu tiên của dự án Phim trường số Việt Nam là bộ phim điện ảnh 3D "Dế mèn cuộc phiêu lưu tới xóm lầy lội", ra mắt vào ngày 30/5/2025 đã nhận được sự đón nhận tích cực từ cộng đồng. Dự án phim trường số tại ICTU không chỉ là một bước đi công nghệ - giáo dục, mà còn là một hướng đột phá chiến lược, mở ra một ngành nghề mới, lĩnh vực mới trong kỷ nguyên số của Việt Nam.
Một số thành tích ấn tượng của Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên gặt hái trong năm 2025. Ảnh: ICTU.
Trước đó, trong các năm 2019, 2022, 2023, các giảng viên của nhà trường cũng đã có những sản phẩm ứng dụng AI đạt giải Sao Khuê như giải pháp công nghệ quản lý, theo dõi chỉ số nước sử dụng của khách hàng Smart Water, giải pháp nhà thông minh Hunonic, hay ứng dụng chăm sóc khách hàng OmiCX. Đây là minh chứng cho sự đổi mới của ICTU trong nghiên cứu phát triển ứng dụng AI. Các dự án này được thực hiện thông qua kết hợp nguồn lực giảng viên, sinh viên với các doanh nghiệp nội bộ trong trường như Trung tâm Phát triển Phần mềm của trường.
Những thành tựu này phản ánh cam kết của ICTU trong việc gắn kết đại học - doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, phù hợp với Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. Đây chính là mô hình hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trường đại học - doanh nghiệp đang được ICTU hiện thực hóa, từ đó tạo nên môi trường đào tạo gắn liền thực tiễn, thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Theo Phó Giáo sư Nghĩa, mặc dù đã có những bước tiến đáng kể trong đào tạo công nghệ số và AI, thách thức lớn nhất đối với ICTU là hạn chế về tài nguyên, cơ sở vật chất và khả năng tiếp cận các trung tâm đổi mới sáng tạo tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh dẫn tới những giới hạn nhất định.
Gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp
Để thúc đẩy hợp tác mang tính quốc gia giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả trong đào tạo nhân lực công nghệ số và AI.
Thứ nhất, xây dựng mô hình hợp tác chiến lược. Cần thiết thành lập các liên minh quốc gia giữa đại học và doanh nghiệp, ví dụ như mạng lưới "Đại học - Doanh nghiệp công nghệ số và AI Việt Nam", nơi tất cả các trường đại học có đào tạo, nghiên cứu về công nghệ số và AI có thể kết nối với các tập đoàn công nghệ hàng đầu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này có thể bao gồm chương trình trao đổi nhân sự, thực tập và dự án chung, giúp sinh viên tiếp cận công nghệ thực tiễn.
Thứ hai, để thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nên ưu tiên cho các trường đại học chuyên sâu về công nghệ số và AI (không phân biệt khu vực địa lý, vùng miền) trong việc tiếp cận tài nguyên, đất đai, và cơ sở vật chất tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tránh đầu tư dàn trải và tận dụng cơ sở hạ tầng hiện có.
Điều này sẽ giúp các trường đại học hợp tác chặt chẽ hơn với doanh nghiệp, đồng thời phát huy thế mạnh dữ liệu địa phương để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia cho AI; phù hợp với Quyết định số 452/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Ảnh minh họa: ICTU.
Thứ ba, đầu tư vào đào tạo, nghiên cứu liên ngành trên nền công nghệ số và AI; từ đó tạo ra giá trị mới, việc làm mới và động lực tăng trưởng GDP bền vững. Hướng đi này không chỉ thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW và Đề án Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao, mà còn góp phần vào cuộc cách mạng vươn mình của Việt Nam bằng chính nội lực sáng tạo của mình.
Thứ tư, đầu tư vào xây dựng dữ liệu quốc gia. Chính phủ cần ban hành các chính sách đầu tư và khuyến khích tất cả các trường đại học trong cả nước cùng các trường đại học trọng điểm tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh hợp tác xây dựng các dự án dữ liệu lớn, chẳng hạn như thu thập dữ liệu kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa, xã hội từ các khu vực vùng địa lý,... để hỗ trợ Việt Nam làm chủ dữ liệu quốc gia và công nghệ lõi AI.
Thứ năm, thúc đẩy vai trò của các hiệp hội chuyên môn và các mạng lưới khu vực. Các hiệp hội chuyên môn có thể dẫn dắt các sáng kiến kết nối các đơn vị đào tạo công nghệ thông tin và truyền thông trên toàn quốc, tạo ra các diễn đàn trao đổi, hợp tác với doanh nghiệp, đảm bảo sự cân bằng phát triển quốc gia. Đề xuất này góp phần vào mục tiêu làm chủ AI bằng cách xây dựng dữ liệu nội địa, từ đó giảm phụ thuộc vào nước ngoài.
Việc gắn kết đại học - doanh nghiệp là chìa khóa để Việt Nam phát triển nguồn nhân lực công nghệ số và AI, góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược quốc gia, đặc biệt là Nghị quyết 57-NQ/TW và các chính sách liên quan. Để đạt được điều này, cần có thêm những chính sách thúc đẩy hợp tác công tư, hợp tác doanh nghiệp - đại học.
Thúy Hiền