LTS: Hình phạt tử hình là chế tài hình sự khắc nghiệt nhất trong pháp luật của các quốc gia. Mặc dù đã được áp dụng từ rất lâu, song cho đến nay, hình phạt này vẫn còn gây tranh luận xoay quanh một loạt khía cạnh, từ hiệu quả răn đe tội phạm cho đến tính nhân đạo của hình phạt này.
Hiện ngày càng có nhiều quốc gia trên thế giới xóa bỏ hình phạt tử hình trong pháp luật hoặc không áp dụng trong thực tế. Việt Nam là một trong những quốc gia áp dụng hình phạt tử hình, mặc dù số tội danh có thể tuyên án tử hình trong Bộ luật Hình sự đã liên tục giảm từ năm 1999. Những năm gần đây, Việt Nam thường nhận được khuyến nghị của các cơ quan nhân quyền LHQ về việc giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình.
Báo Thế giới và Việt Nam giới thiệu loạt bài 2 kỳ của PGS.TS Vũ Công Giao - Thảo Minh, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội nêu các vấn đề lý luận, thực tiễn và pháp lý về hình phạt tử hình trên thế giới và ở Việt Nam, nhằm cung cấp thông tin và gợi mở những nghiên cứu và thảo luận sâu hơn về việc áp dụng hình phạt tử hình ở nước ta.
Ảnh minh họa.
Tử hình đã được áp dụng từ thời cổ đại ở mọi quốc gia cho rất nhiều tội phạm khác nhau, nhưng hiện đã được thu hẹp lại đáng kể, tập trung vào một số tội đặc biệt nghiêm trọng như cố ý giết người, phản quốc, đầu hàng giặc, tham nhũng, ma túy...
Hiện nay, tùy vào luật pháp của từng quốc gia, hình phạt này chủ yếu được thực hiện dưới hình thức xử bắn, tiêm thuốc độc, dùng ghế điện hoặc treo cổ… Thủ tục tố tụng với án tử hình cũng có nhiều thay đổi, tử tù được phép có luật sư bào chữa miễn phí, hay được xin ân xá…
Hình phạt tử hình có vi phạm quyền sống?
Một trong những vấn đề gây nhiều tranh luận từ trước đến nay vẫn là liệu hình phạt tử hình có vi phạm quyền sống? Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền sống được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948 (Điều 3) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) (Điều 6) cùng một số công ước khác.
Về nội hàm, trong Bình luận chung số 6 (năm 1982), Ủy ban Nhân quyền (HRC) cho rằng, quyền sống là “một quyền tối cao” mà trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp, các quốc gia cũng không được bãi bỏ hay tạm đình chỉ việc thực hiện.
Tuy nhiên, cũng theo Ủy ban này, quyền sống không phải là “quyền tuyệt đối”, vì ICCPR không bắt buộc các quốc gia phải xóa bỏ hình phạt tử hình, mà chỉ yêu cầu giới hạn áp dụng hình phạt này với “những tội ác nghiêm trọng nhất”. Nói cách khác, việc duy trì hình phạt tử hình không vi phạm luật nhân quyền quốc tế, song nếu lạm dụng hình phạt đó thì có thể xung đột với ICCPR.
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về tác dụng răn đe của hình phạt tử hình. Nổi tiếng nhất là nghiên cứu của Issac Ehrlich công bố năm 1975, kết luận rằng, mỗi bản án tử hình có thể làm giảm 7-8 vụ giết người.
Tuy nhiên, một nghiên cứu khác được công bố từ năm 1959 của Thorsten Sellin lại chứng minh rằng, hình phạt tử hình không có hiệu lực răn đe tội phạm cao hơn so với hình phạt tù chung thân. Tương tự, các nghiên cứu do Liên hợp quốc (LHQ) thực hiện vào năm 1988, 1996 và 2002 cũng đi đến kết luận: “Không có bằng chứng cho thấy hình phạt tử hình có tác dụng ngăn chặn tội phạm cao hơn so với những hình phạt khác”.
Ở nhiều quốc gia, việc xóa bỏ hình phạt tử hình không khiến cho tội phạm tăng lên. Ví dụ, ở Canada, tỷ lệ phạm tội giết người đã giảm từ 3,09 người/100.000 dân vào 1975 (năm trước khi xóa bỏ hình phạt tử hình với tội này), xuống còn 2,41 người vào 1980 và tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo.
Ngược lại, ở Mỹ, thống kê cho thấy ở 36 bang còn duy trì hình phạt tử hình, tỷ lệ phạm tội giết người lại cao hơn so với ở các bang đã xóa bỏ hình phạt này.
Giới hạn của hình phạt tử hình
Như đã đề cập ở phần trên, luật nhân quyền quốc tế bảo vệ quyền sống nhưng không xem đó là một quyền tuyệt đối. Trong ICPPR và các văn kiện khác của luật nhân quyền quốc tế không có điều khoản nào bắt buộc các quốc gia thành viên phải xóa bỏ hình phạt tử hình hoặc xem việc áp dụng hình phạt tử hình là vi phạm quyền sống.
Tuy nhiên, để bảo vệ quyền sống khỏi bị tước bỏ một cách tùy tiện, hay nói cách khác là để phòng ngừa việc lạm dụng hình phạt tử hình, luật nhân quyền quốc tế quy định các quốc gia có nghĩa vụ giới hạn áp dụng hình phạt này chỉ với “những tội ác nghiêm trọng nhất”.
Ngoài ra, luật nhân quyền quốc tế còn quy định nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm những thủ tục tố tụng công bằng ở mức độ cao nhất với những vụ việc mà bị cáo bị xét xử với mức án tử hình, trong đó bao gồm những khía cạnh như không áp dụng hồi tố, xét xử công khai, được giả định vô tội, bảo đảm các quyền bào chữa, kháng cáo và xin ân giảm...
Vấn đề là khái niệm “các tội phạm nghiêm trọng nhất” trong thực tế chưa được hiểu một cách thống nhất ở các quốc gia và việc diễn giải cụm từ này khác nhau đã dẫn đến phạm vi tội phạm có thể bị kết án tử hình khác nhau giữa các nước.
Từ góc độ quan điểm của các cơ quan nhân quyền LHQ, Ủy ban Nhân quyền cho rằng: “Cụm từ “các tội phạm nghiêm trọng nhất” phải được giải thích với ý nghĩa rằng, hình phạt tử hình phải là một biện pháp ngoại lệ”, trong đó không bao gồm các tội phạm về kinh tế, tội tham nhũng, các tội phạm về chính trị, tội cướp, bắt cóc mà không gây hậu quả chết người, bội giáo và các tội liên quan đến ma túy.
Ủy ban Nhân quyền của LHQ giải thích rằng, khái niệm “các tội phạm nghiêm trọng nhất” không bao gồm những hành vi phi bạo lực như các tội phạm tài chính, việc thực hành tôn giáo hoặc thể hiện tín ngưỡng hoặc quan hệ tình dục đồng thuận giữa những người trưởng thành.
Còn theo đoạn 1 của văn kiện hướng dẫn “Các bảo đảm về quyền của những người đối mặt với án tử hình” được ban hành kèm theo Nghị quyết 1996/15 ngày 23/7/1996 của Hội đồng Kinh tế và xã hội LHQ (ECOSOC) thì: “Tại các quốc gia chưa bãi bỏ hình phạt tử hình, án tử hình chỉ được áp dụng đối với các tội phạm nghiêm trọng nhất và cần hiểu rằng phạm vi của các tội này không vượt ra khỏi các tội phạm mang tính quốc tế gây ra hậu quả chết người hoặc các hậu quả nghiêm trọng khác”.
Từ những diễn giải trên, có thể thấy, theo quan điểm của các cơ quan nhân quyền LHQ, phạm vi tội danh có thể áp dụng hình phạt tử hình là rất hẹp, cơ bản chỉ giới hạn ở tội giết người với tình tiết tăng nặng.
Có quan điểm cho rằng, hình phạt tử hình có tác dụng ngăn chặn tội phạm, do đó gián tiếp có tác dụng bảo vệ nền tảng và những giá trị đạo đức trong xã hội. Tuy nhiên, quan điểm khác cho rằng, do tính tàn khốc của nó, hình phạt tử hình có thể làm xói mòn tính nhân đạo và sự khoan dung, là những giá trị đạo đức cơ bản mà tất cả các xã hội đều cần phải vun đắp.
Vận động xóa bỏ hình phạt tử hình
Trong thực tiễn, xu hướng chung trên thế giới trong những thập kỷ gần đây là giảm và tiến tới loại trừ hình phạt tử hình. Số lượng các quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình ngày càng tăng. Nếu như ở thập kỷ 1960, mới chỉ có gần 30 quốc gia thì đến cuối năm 2019, đã có 142 nước xóa bỏ hình phạt tử hình trong pháp luật và trong thực tế, chiếm 2/3 số quốc gia trên thế giới.
Không chỉ vậy, số lượng các vụ thi hành án tử hình cũng ngày càng giảm. Hiện tại, mỗi năm chỉ có khoảng 2.000 tử tù bị hành quyết (chủ yếu ở Trung Quốc Iran, Saudi Arabia, Iraq and Egypt) so với hàng vạn người trên khắp thế giới trong thế kỷ 20.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự thay đổi to lớn kể trên, trong đó có sự vận động kiên trì, bền bỉ của nhiều tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế. Tuy không yêu cầu các quốc gia phải xóa bỏ hình phạt tử hình, luật nhân quyền quốc tế cũng chứa đựng những quy định khuyến khích các quốc gia thay thế hình phạt khắc nghiệt này bằng những hình phạt khác.
Ngay từ thập kỷ 1960, vấn đề hạn chế và xóa bỏ hình phạt tử hình đã từng bước được đề cập trong luật nhân quyền quốc tế. Cụ thể, trong khoản 6 Điều 6 ICCPR đã nêu rõ: “Không một quy định nào trong điều này có thể được viện dẫn để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ hình phạt tử hình tại bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước”.
Để vận động cho việc xóa bỏ hình phạt tử hình, các công ước về luật hình sự quốc tế (ví dụ, Quy chế của Tòa án Hình sự quốc tế xét xử các tội ác chiến tranh ở Nam Tư cũ, Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế...) cũng không quy định hình phạt tử hình, kể cả với những tội ác nghiêm trọng nhất về nhân quyền như tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, tội xâm lược.
Đặc biệt, vào năm 1989, Đại hội đồng LHQ đã thông qua Nghị định thư tùy chọn thứ hai về bãi bỏ hình phạt tử hình bổ sung ICCPR. Lời nói đầu của Nghị định thư này nêu rõ: “Tin tưởng rằng, việc bãi bỏ hình phạt tử hình góp phần nâng cao nhân phẩm và thúc đẩy sự phát triển tiến bộ các quyền con người” và “lưu ý rằng, Điều 6 ICCPR khuyến nghị mạnh mẽ việc bãi bỏ hình phạt tử hình ngay khi có điều kiện cho phép thực hiện việc đó”, đồng thời “tin tưởng rằng, tất cả các biện pháp nhằm bãi bỏ hình phạt tử hình được coi là sự tiến bộ trong việc hưởng thụ quyền sống”.
Quyền sống và hình phạt tử hình là hai vấn đề có mối liên hệ chặt chẽ, cùng được điều chỉnh bởi luật nhân quyền quốc tế. Những quy định về hai vấn đề này trong luật nhân quyền quốc tế ngày càng được bổ sung và cụ thể hóa theo hướng bảo vệ triệt để hơn quyền sống và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình.
Những quy định đó hiện đã nhận được sự ủng hộ của đa số quốc gia trên thế giới, và ngày càng mang tính chất ràng buộc cao hơn, cả về pháp lý và luân lý. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến xu hướng giảm và xóa bỏ hình phạt tử hình trên thế giới mấy thập kỷ gần đây.
Xu hướng giảm và xóa bỏ hình phạt tử hình trên thế giới
Đây là xu hướng đã diễn ra liên tục trên thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua. Ở thời điểm ra đời Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948, mới chỉ có 8 quốc gia bãi bỏ hình phạt tử hình; thời điểm ra đời Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966, số quốc gia như vậy mới chỉ là 26.
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện nay, số quốc gia bãi bỏ hình phạt tử hình đã là đa số áp đảo. Theo Tổ chức Ân xá quốc tế, tính đến hết năm 2019, có 142 quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình trong pháp luật và trong thực tế, chỉ còn 56 nước vẫn đang duy trì và áp dụng hình phạt tử hình.
Khi xóa bỏ hình phạt tử hình, hình phạt thay thế thường là tù chung thân (có thể không hoặc được ân xá nếu cải tạo tốt). Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng hình phạt tử hình “nhân đạo” hơn so với tù chung thân, bởi việc cả đời bị giam cầm, cách biệt xã hội là rất khủng khiếp.
Song cần thấy rằng, án tù chung thân tuy rất khắc nghiệt nhưng người tù vẫn còn có cơ hội được trở lại cuộc sống bình thường nếu được giảm án, ân xá hay được minh oan, còn hình phạt tử hình triệt tiêu hoàn toàn những cơ hội và niềm hi vọng đó, chưa kể hình phạt tử hình thường gây cho tử tù những đau đớn tột cùng khi bị hành quyết và sự khủng hoảng tinh thần vô cùng nặng nề khi chờ đợi thi hành án.
Từ một khía cạnh khác, có quan điểm cho rằng, không nên thay thế hình phạt tử hình bằng tù chung thân vì việc giam giữ một người cả đời sẽ rất tốn kém. Tuy nhiên, quan điểm khác cho rằng lập luận như vậy thể hiện sự “vô cảm” trước tính mạng con người.
Ngoài ra, trong thực tế, ở một số quốc gia, chi phí cho hình phạt tử hình (gồm chi phí cho việc hành quyết và mai táng tử tù, chi phí cho hoạt động tố tụng) lại tốn kém hơn so với hình phạt tù chung thân. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy, ở bang Bắc Carolina của Mỹ, chi phí cho một án tử hình cao hơn so với chi phí của một án tù chung thân tới 2,16 triệu USD.
Ủy ban Nhân quyền cho rằng, quyền sống không phải là “quyền tuyệt đối”, vì ICCPR không bắt buộc các quốc gia phải xóa bỏ hình phạt tử hình, mà chỉ yêu cầu giới hạn áp dụng hình phạt này với “những tội ác nghiêm trọng nhất”. Nói cách khác, việc duy trì hình phạt tử hình không vi phạm luật nhân quyền quốc tế, song nếu lạm dụng hình phạt đó thì có thể xung đột với ICCPR.
Có quan điểm cho rằng, hình phạt tử hình được chấp nhận bởi một số tôn giáo, thể hiện qua một số quy định liên quan như trong Kinh Thánh của Thiên chúa giáo, hay kinh Koran của Hồi giáo. Tuy nhiên, kinh điển của các tôn giáo nêu trên không có quy định nào trực tiếp về hình phạt tử hình. Những quy định được trích dẫn thường được dùng trong bối cảnh khác.
Bên cạnh đó cũng có nhiều quy định khác cổ vũ cho sự tha thứ, khoan dung với những người có hành vi phạm tội. Đặc biệt, trong Phật giáo, với triết lý cấm sát sinh, có thể xem hình phạt tử hình là trái với tinh thần của tôn giáo này. Xét tổng quát, những tôn giáo chính của nhân loại đều nhấn mạnh lòng nhân đạo, sự cảm thông và tha thứ trong giáo lý của mình. Vì vậy, việc xóa bỏ hình phạt tử hình phù hợp với tinh thần của những tôn giáo đó.
Hiện tại, việc xóa bỏ hình phạt tử hình đã trở thành một phong trào mang tính toàn cầu, được LHQ và nhiều tổ chức quốc tế khác ủng hộ mạnh mẽ. Trong diễn văn gần đây, Tổng thư ký LHQ đã kêu gọi các quốc gia hành động để “hình phạt tử hình không còn chỗ đứng trong thế kỷ 21”. Trong khi đó, ở cấp độ quốc gia, một số nước đã đưa vấn đề xóa bỏ hình phạt tử hình vào chính sách đối ngoại của mình như Australia, Thụy Sỹ, Anh...
Hình phạt tử hình là một vấn đề đa diện, phức tạp, vì vậy ở nhiều nước đa số công chúng vẫn ủng hộ hình phạt này. Song, thực tế cũng cho thấy, ở đa số quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình, nhà nước đã đưa ra quyết định trong hoàn cảnh công luận vẫn nghiêng về phía ủng hộ việc duy trì hình phạt. Nhưng quan trọng là khi quyết định xóa bỏ hình phạt tử hình được nhà nước đưa ra thì công luận ở các nước đó cũng không có phản ứng đáng kể.
Đón đọc: Hình phạt tử hình trong pháp luật Việt Nam (Bài cuối)
PGS.TS VŨ CÔNG GIAO