Chiều 10/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về hai dự án luật gồm Luật Dân số và Luật Phòng bệnh. Đây là hai dự án luật mới nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách dân số và công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Hỗ trợ sinh con phải công bằng, không nhất thiết trước 35 tuổi
Góp ý vào dự thảo Luật Dân số trong phiên thảo luận, đại biểu Tô Văn Tám (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ngãi) quan tâm tới việc duy trì mức sinh thay thế.
Dẫn dự thảo luật, đại biểu cho biết có ba đối tượng được hỗ trợ tài chính gồm: phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ dân tộc ít người; phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi; và phụ nữ ở địa phương có mức sinh thay thế thấp. Đại biểu đề nghị làm rõ quy định với đối tượng thứ hai - phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi.
Đại biểu Tô Văn Tám - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ngãi.
"Có thể quy định này nhằm khuyến khích người trong độ tuổi sinh đẻ để đảm bảo nguồn nhân lực cho tương lai, nhưng nếu nhìn ở góc độ tính hợp lý, tính công bằng thì chưa ổn và có vấn đề. Đó là nó tạo ra sự phân biệt đối với những người sinh đủ hai con sau tuổi 35", ông Tám nêu quan điểm.
Thực tế, ông cho rằng có những người phụ nữ có thể muốn sinh trước 35 tuổi, nhưng vì nhiều điều kiện kinh tế, sự nghiệp, áp lực công việc hay các yếu tố khách quan khác mà họ chưa sinh được trước 35 tuổi. Nhưng sau đó, khi họ sinh đủ hai con sau 35 tuổi lại không được hỗ trợ, đại biểu cho rằng điều này là không công bằng, thiếu tính toàn diện. Vì vậy, cần quy định đồng bộ hơn theo hướng hỗ trợ cho các phụ nữ sinh hai con ở tất cả các tuổi.
Ngoài ra, theo đại biểu tỉnh Quảng Ngãi, cần có chính sách bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, hỗ trợ các dịch vụ về bảo đảm quyền bình đẳng trong lao động bằng một chính sách dân số việc làm hợp lý, chứ không chỉ quy định đơn thuần sinh trước 35 hay sau 35 tuổi.
Về trách nhiệm trong quy trì mức sinh thay thế, ông cho rằng ngoài trách nhiệm của Nhà nước, quy định nên mở theo hướng khuyến khích các tổ chức kinh tế hỗ trợ, tạo điều kiện thực hiện các biện pháp duy trì sinh thay thế đối với người lao động làm việc tại tổ chức mình.
"Thực tế, có nhiều lúc người phụ nữ đang nuôi con nhỏ không dám nghỉ dù có thể được nghỉ, vì áp lực thu nhập", ông Tám dẫn chứng.
Tăng nghỉ thai sản có thể là rào cản với phụ nữ
Phát biểu thảo luận về dự án Luật Dân số, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng) cho rằng xây dựng và ban hành luật lần này là vô cùng cần thiết, bởi các chính sách hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp với thực trạng dân số Việt Nam hiện nay, khi mức sinh đang giảm, già hóa diễn ra nhanh và mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn đáng báo động.
Bà nhấn mạnh, sự thay đổi mạnh mẽ về điều kiện kinh tế - xã hội cùng với tâm lý kết hôn muộn, sinh ít, thậm chí không muốn sinh con đang tạo ra thách thức mới, buộc chính sách dân số phải chuyển hướng sang nâng cao chất lượng dân số và thích ứng với già hóa.
Một trong những điểm được đại biểu quan tâm là quy định tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai thêm một tháng trong dự thảo mới. Theo bà Nga, đây là chính sách sẽ nhận được sự đồng tình của khá nhiều người đã, đang và sẽ làm mẹ. Tuy nhiên, bà cảnh báo cần xem xét thận trọng quy định này.
"Khi kéo dài thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ, doanh nghiệp sẽ có xu hướng e ngại tuyển dụng hoặc bố trí lao động nữ vào các vị trí quan trọng do lo chuyện gián đoạn công việc và chi phí phát sinh", bà Nga băn khoăn.
Theo bà, quy định này có thể vô tình trở thành rào cản đối với lao động nữ và làm gia tăng nguy cơ phân biệt đối xử về giới trong tuyển dụng và sử dụng lao động nữ.
Bên cạnh đó, theo đại biểu, đối với nhóm phụ nữ hiện nay có xu hướng coi trọng sự nghiệp, đặc biệt là nhóm lao động trẻ, lao động chất lượng cao, chính sách tăng thời gian nghỉ thai sản có thể tạo tâm lý e ngại sinh con thứ hai.
"Nhiều người sẽ lo lắng rằng việc vắng mặt thời gian dài hơn sẽ ảnh hưởng đến cơ hội thăng tiến, đánh giá hiệu quả công việc hoặc vị trí trong cơ quan, doanh nghiệp", bà phân tích.
Vì vậy, đại biểu đề nghị quy định mở và linh hoạt, có sự phân biệt giữa các nhóm nghề, ngành, khu vực trước khi áp dụng và phải song song có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp, đảm bảo cơ hội thăng tiến bình đẳng cho phụ nữ sau khi nghỉ thai sản.
Quan trọng hơn, theo đại biểu, chính sách cần chuyển từ tư duy chỉ tập trung vào phụ nữ sang chia sẻ trách nhiệm với người chồng. Đại biểu đề xuất nên quy định vợ hoặc chồng đều có thể nghỉ dài ngày chăm con, thậm chí, tổng thời gian nghỉ của cả hai vợ chồng không quá 7 hoặc 8 tháng, tùy gia đình lựa chọn phân bổ - cách làm vừa đảm bảo chăm sóc trẻ, vừa "giảm áp lực cho phụ nữ" và thúc đẩy bình đẳng giới trong chăm sóc con nhỏ.
Xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân cho gia đình sinh đủ hai con
Đóng góp cho dự thảo Luật Dân số, đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh) dẫn chứng, Khoản 1, Điều 13 quy định một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích sinh đủ hai con như hỗ trợ thai sản, hỗ trợ tài chính, nhà ở. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc triển khai các chính sách này, đặc biệt là chính sách về nhà ở, gặp rất nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn lực và khả năng cân đối ngân sách, nhất là tại các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn. Ngoài ra, các chính sách hiện nay chưa thực sự khuyến khích mạnh mẽ vai trò của nam giới trong việc chia sẻ, chăm sóc con cái.
Đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh.
Vì vậy, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát quy định theo hướng linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi, đồng thời bổ sung một số chính sách mang tính bền vững, thiết thực như hỗ trợ phát triển hệ thống dịch vụ trông giữ trẻ, giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập, bảo đảm chất lượng. Đây là giải pháp căn cơ giúp giảm gánh nặng chăm sóc con nhỏ cho các gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ, đặc biệt là lao động nữ, sớm quay lại thị trường lao động.
Ngoài ra, cần xem xét chính sách giảm thuế thu nhập cá nhân cho các gia đình sinh đủ hai con. Đây là hình thức hỗ trợ trực tiếp, có tính khích lệ cao và phù hợp với xu hướng chính sách tại một số quốc gia đang đối mặt với tỷ suất sinh thấp. Chính sách này không chỉ hỗ trợ tài chính mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ yên tâm sinh và nuôi con, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu dân số.
Tiếp đó, tại Điểm b, Khoản 1, Điều 13 quy định hỗ trợ tài chính khi sinh con đối với phụ nữ dân tộc thiểu số. Quy định này nhằm khuyến khích tăng mức sinh, song theo Đại biểu, cần được nghiên cứu hết sức thận trọng, bởi thực tiễn cho thấy tỷ suất sinh ở nhóm dân tộc thiểu số vốn đã cao hơn so với mức bình quân chung của cả nước, trong khi điều kiện sống của đồng bào còn vô vàn khó khăn.
Theo điều tra tình trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2020, tỷ suất sinh đạt từ 4 đến 4,3 con trên mỗi phụ nữ, cao gấp hơn hai lần mức trung bình quốc gia. Tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh cao gấp 5 đến 6 lần mức bình quân cả nước. Có khoảng 20 đến 24% phụ nữ sinh con tại nhà không được hỗ trợ y tế. Những số liệu này cho thấy vấn đề cốt lõi không phải là họ không muốn sinh con, mà là điều kiện sống, chăm sóc sức khỏe và khả năng tiếp cận dịch vụ cơ bản còn quá hạn chế.
Việc gia tăng sinh trong bối cảnh đó không những không cải thiện chất lượng dân số mà còn có thể làm gia tăng tình trạng nghèo đói, tử vong trẻ em và bất bình đẳng giới.
Lê Huyền
Nguồn Hà Nội TV : https://hanoionline.vn/ho-tro-sinh-con-phai-cong-bang-khong-gioi-han-do-tuoi-369380.htm