Học tập suốt đời đã và đang trở thành 'kỹ năng sinh tồn'

Học tập suốt đời đã và đang trở thành 'kỹ năng sinh tồn'
9 giờ trướcBài gốc
Cần hiện thực hóa mục tiêu "học tập suốt đời"
Học tập suốt đời được xem là quá trình đào tạo và tự đào tạo của mỗi cá nhân, nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng phục vụ cho công việc và cuộc sống. Mục tiêu của học tập suốt đời là giúp con người thích ứng với sự biến đổi không ngừng của xã hội và sự phát triển của tri thức nhân loại.
Để thực hiện học tập suốt đời, có nhiều phương tiện khác nhau. Đó có thể là thông qua trường học, bao gồm cả hình thức chính quy, không chính quy hoặc phi chính quy. Ngoài ra, các lớp bồi dưỡng kiến thức và các thiết chế văn hóa như bảo tàng, nhà văn hóa, đặc biệt là thư viện, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ học tập suốt đời.
PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội (Ảnh: Duy Thông)
Nền tảng để thúc đẩy học tập suốt đời là hệ thống chính sách văn hóa - giáo dục của một quốc gia, kết hợp với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ. Điều này giúp kiến tạo một xã hội học tập với môi trường thuận lợi để công dân có thể theo đuổi việc học suốt đời.
Học tập suốt đời đã và đang trở thành một kỹ năng sinh tồn, giúp chúng ta tồn tại và phát triển trong một xã hội biến đổi không ngừng; là một thành tố quan trọng không thể thiếu để kiến tạo một xã hội học tập.
Xây dựng xã hội học tập là mục tiêu quan trọng của nhiều quốc gia, trong đó việc thúc đẩy học tập suốt đời đóng vai trò nền tảng. Điều này giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường tính cạnh tranh quốc gia và đảm bảo sự phát triển bền vững trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số.
Tại Việt Nam, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu. Chúng ta đã có Đề án "Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030", được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1373/QĐ-TTg vào ngày 30 tháng 7 năm 2021, đặt mục tiêu tạo ra sự chuyển biến cơ bản trong việc xây dựng xã hội học tập. Mục tiêu này đảm bảo rằng đến năm 2030, mọi người dân đều có cơ hội và được đối xử bình đẳng trong việc tiếp cận hệ thống giáo dục mở, đa dạng, linh hoạt, liên thông và hiện đại.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa được mục tiêu học tập suốt đời và kiến tạo xã hội học tập, chúng ta cần làm cho tất cả mọi người đều ham học hỏi; làm cho việc học trở nên dễ tiếp cận mọi lúc mọi nơi. Việc học tập phải đa dạng, phù hợp với cung và cầu; học tập để làm việc hiệu quả và biến quá trình làm việc trở thành học tập.
Nhiều mô hình học tập suốt đời
Cho đến hiện tại, Việt Nam đã xây dựng nhiều mô hình học tập suốt đời. Đó là mô hình công dân học tập, học tập tại gia đình, tại cộng đồng, tại nơi làm việc, hay mô hình học tập tại các không gian thiết chế văn hóa chung.
Công dân học tập là yếu tố cốt lõi của xã hội học tập. Mỗi công dân cần có ý thức tự giác học tập, nâng cao trình độ, năng lực để đáp ứng yêu cầu công việc và thích ứng với xã hội hiện đại.
Gia đình là nền tảng quan trọng trong việc hình thành thói quen học tập suốt đời. Các chương trình như "Gia đình học tập" được triển khai nhằm khuyến khích phụ huynh và con cái cùng tham gia vào các hoạt động học tập, đọc sách và tiếp cận tri thức thông qua các nền tảng số. Trong các mô hình gia đình học tập, chỉ số đánh giá cơ bản là trẻ em phải được phổ cập giáo dục đúng độ tuổi và người lớn phải trở thành công dân học tập. Qua học tập liên tục để thoát nghèo, để đóng góp vào phát triển nghề nghiệp, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống văn hóa tại địa phương.
Từ hạt nhân gia đình, các mô hình “dòng họ học tập” được xây dựng có ý nghĩa to lớn trong việc tôn vinh giá trị của việc học, kịp thời động viên, khuyến khích các gia đình dòng họ cùng nhau phấn đấu để tiến bộ. Các chỉ số đánh giá với dòng họ học tập là coi dòng họ như một cộng đồng huyết thống của các gia đình học tập, là nơi hướng dẫn, động viên, khuyến khích các thế hệ trong dòng họ tinh thần hiếu học, lập thân, lập nghiệp, gắn kết với các dòng họ khác để tạo thành một cộng đồng học tập mở.
Chúng ta cũng đã xây dựng các cộng đồng học tập ở phạm vi thôn bản, tổ dân phố và các đơn vị học tập trực thuộc huyện/tỉnh, giúp tạo ra môi trường học tập tốt, khuyến khích mọi thành phần trong cộng đồng tham gia học tập.
Đặc biệt, mô hình học tập tại nơi làm việc (workplace learning) là một mô hình quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp ngày càng chú trọng đến việc đào tạo kỹ năng mới cho người lao động thông qua các khóa học trực tuyến, chương trình đào tạo tại chỗ và mô hình cố vấn nghề nghiệp. Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích học tập tại nơi làm việc như Nghị định 89/2021/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
Để xây dựng xã hội học tập, việc học cũng cần phải được tổ chức theo nhiều hình thức, tại nhiều không gian văn hóa khác nhau. Trong đó, những không gian quan trọng nhất là thư viện, bảo tàng và các trung tâm văn hóa. Và quá trình chuyển đổi số đang mở ra nhiều cơ hội mới cho các thiết chế này, như xây dựng thư viện số, bảo tàng ảo và các khóa học trực tuyến miễn phí nhằm hỗ trợ học tập suốt đời.
Để xây dựng xã hội học tập, việc học cần được tổ chức theo nhiều hình thức, tại nhiều không gian văn hóa khác nhau (Hình minh họa: VOV)
Hoạt động của các trung tâm văn hóa có thể là những không gian mở để phổ biến văn hóa dân tộc, khơi dậy tình cảm với văn hóa đương đại, bảo vệ các giá trị di sản văn hóa, tạo ra các khóa học cộng đồng mở để giáo dục văn hóa và nghệ thuật truyền thống. Việt Nam hiện có 66 trung tâm văn hóa cấp tỉnh, bao gồm trung tâm văn hóa nghệ thuật, trung tâm văn hóa - điện ảnh, trung tâm thông tin - triển lãm. 700 quận, huyện có trung tâm văn hóa - thể thao hoặc Nhà văn hóa. Có 7.945 xã, phường, thị trấn có Trung tâm văn hóa thể thao và 78.273 làng đang phục vụ nhu cầu hưởng thụ giá trị văn hóa cũng như học tập suốt đời của người dân.
Vai trò của thư viện cũng rất quan trọng trong việc thúc đẩy học tập suốt đời, kết nối tri thức, hướng dẫn cách tra cứu, khai thác thông tin - một điều kiện tiên quyết để hình thành một nền dân chủ thông tin và xã hội tri thức.
Việt Nam có mạng lưới 1 thư viện quốc gia, 63 thư viện tỉnh/thành, 667 thư viện cấp huyện và 3.290 thư viện cấp xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, còn có 19.881 phòng đọc, tủ sách cơ sở và 178 thư viện tư nhân phục vụ cộng đồng. Chúng ta cũng có 400 thư viện của các trường đại học và tương đương, 25.915 thư viện trường phổ thông, trên 100 thư viện thuộc các Bộ ngành, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu khoa học. Lực lượng vũ trang nhân dân cũng phát triển mạnh mẽ với 110 thư viện, 529 phòng đọc, 3.027 tủ sách của lực lượng công an và 421 thư viện trong hệ thống quân đội, cùng khoảng 1.000 phòng đọc sách Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, với xu hướng thư viện không sách (bookless library), thư viện không chỉ là nơi lưu giữ tài liệu mà còn trở thành trung tâm cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thư viện đa dạng. Ngoài ra, thư viện còn là không gian sinh hoạt cộng đồng, nơi hỗ trợ người dùng tiếp cận thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Quan trọng hơn, thư viện đóng vai trò hỗ trợ tích cực cho việc học tập suốt đời của người sử dụng bằng cách cung cấp nguồn thông tin phong phú và môi trường học tập thuận lợi, trang bị năng lực thông tin cho người dân để họ tự học.
Hệ thống các bảo tàng cũng đóng vai trò quan trọng của giáo dục xã hội, thông qua triển lãm và các hoạt động tại chỗ của mình để cung cấp một phương pháp học tập không chính thức và đa dạng, một không gian có ý nghĩa cho học tập bằng cách thu hút sự tham gia của cộng đồng.
Hiện nay cả nước có 188 bảo tàng (với 128 bảo tàng công lập và 60 bảo tàng ngoài công lập) lưu giữ trên 4 triệu hiện vật, trong đó có nhiều sưu tập hiện vật quý giá về lịch sử, văn hóa dân tộc học, mỹ thuật. Có 155 hiện vật thuộc nhóm hiện vật công nhận là bảo vật quốc gia.
Những thành tựu của Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư, bao gồm trí tuệ nhân tạo, công nghệ thực tế ảo, dữ liệu lớn (Bigdata) và công nghệ 3D đã được ứng dụng rộng rãi và làm thay đổi đáng kể hoạt động của bảo tàng. Các công nghệ này giúp tăng cường mức độ trải nghiệm cho người sử dụng. Ngoài việc tham quan trực tiếp, hình thức tham quan trực tuyến cũng đang trở thành một xu hướng tất yếu. Điều này cho phép người dùng có thể khám phá và tương tác với các hiện vật và triển lãm từ xa, mở rộng khả năng tiếp cận, trải nghiệm của bảo tàng.
PGS.TS Trần Thành Nam: "Chúng ta cũng cần tăng cường kết nối giữa giáo dục chính quy và phi chính quy với nhiều hình thức học tập linh hoạt, không gian học tập linh hoạt, công nhận năng lực linh hoạt để giúp người học có nhiều cơ hội nâng cao kỹ năng và kiến thức phù hợp với nhu cầu thực tế".
Giải pháp toàn diện để phát triển học tập suốt đời
Mặc dù đạt được nhiều tiến bộ, nhưng việc xây dựng xã hội học tập vẫn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, nhận thức về học tập suốt đời chưa đồng đều giữa các nhóm đối tượng; hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, chất lượng chương trình học tập trực tuyến chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người học. Sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và tổ chức văn hóa còn hạn chế.
Để tiếp tục phát triển học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, chúng ta cần tiếp tục triển khai những giải pháp toàn diện.
Thứ nhất, tiếp tục chuyển đổi số triệt để và ứng dụng công nghệ số trong giáo dục. Tận dụng các nền tảng học tập trực tuyến, sử dụng trí tuệ nhân tạo để cá nhân hóa nội dung học tập và xây dựng kho học liệu mở sẽ giúp mở rộng cơ hội học tập cho mọi đối tượng, kể cả người cao tuổi. Song song, cần phổ cập bình dân học vụ số, bình dân học vụ AI cho cộng đồng.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách hỗ trợ tài chính và học bổng khuyến khích học tập. Bên cạnh các chủ trương rất nhân văn như miễn học phí giáo dục phổ thông, cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách như học bổng, miễn giảm học phí cho đối tượng yếu thế, tín dụng sinh viên.
Đồng thời, tăng cường các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo nhân lực chất lượng cao, tham gia vào giáo dục thông qua các ưu đãi thuế, động lực để các dòng họ, cộng đồng học tập quan tâm và dành các nguồn ngân sách nuôi dưỡng hỗ trợ tài năng.
Chúng ta cũng cần tăng cường kết nối giữa giáo dục chính quy và phi chính quy với nhiều hình thức học tập linh hoạt, không gian học tập linh hoạt, công nhận năng lực linh hoạt để giúp người học có nhiều cơ hội nâng cao kỹ năng và kiến thức phù hợp với nhu cầu thực tế. Cần đẩy mạnh các phong trào khuyến học, tổ chức tuần lễ học tập suốt đời và xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng để tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập liên tục.
Quan trọng hơn, trong từng tổ chức, người lãnh đạo sẽ không chỉ đóng vai trò điều hành mà phải trở thành "lãnh đạo vì học tập" (Leadership for Learning) để thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Từng nhà lãnh đạo cần xây dựng tầm nhìn rõ ràng về học tập cho tổ chức của mình, thúc đẩy môi trường làm việc khuyến khích đổi mới, sáng tạo và không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn. Họ cũng phải đảm bảo rằng tổ chức có cơ chế hỗ trợ học tập suốt đời, là người truyền cảm hứng cho nhân viên, tạo ra văn hóa đổi mới và tối ưu hóa hiệu suất làm việc. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi số, nơi công nghệ không ngừng thay đổi và đòi hỏi sự thích ứng liên tục.
PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, ĐHQGHN
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/hoc-tap-suot-doi-da-va-dang-tro-thanh-ky-nang-sinh-ton-post407246.html