Trong báo cáo chiến lược năm 2026 được Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán phát hành vào tháng 12/2025 cho rằng mức thuế đối ứng 20% của Mỹ sẽ tác động đến ngành dệt may Việt Nam trong ngắn hạn, tuy nhiên kỳ vọng Mỹ sẽ đem lại cơ hội tăng trưởng cho năm 2026.
Vẫn “sáng cửa” thị trường Mỹ?
Điều này dựa trên bốn yếu tố. Thứ nhất là Việt Nam nắm giữ thị phần xuất khẩu (XK) đứng thứ 2 tại Mỹ (thị phần tăng lên 29% từ mức 20% năm 2024) chỉ sau Trung Quốc. Thứ hai là mức thuế đối ứng “hấp dẫn” (20%) trong 5 quốc gia có giá trị XK hàng dệt may cao sang Mỹ.
Mức thuế đối ứng 20% của Mỹ sẽ tác động đến ngành dệt may Việt Nam trong ngắn hạn, tuy nhiên kỳ vọng thịtrường Mỹ vẫn đem lại cơ hội tăng trưởng XKkhibước vào năm 2026.
Thứ ba là có các thế mạnh riêng khi so sánh lợi thế cạnh tranh với các đối thủ khác như Bangladesh và Ấn Độ. Thứ tư là Việt Nam hiện đang theo đuổi xu hướng bền vững, mục tiêu về kinh tế tuần hoàn – đang được các thị trường hàng đầu trên thế giới chú trọng.
Từ sự kỳ vọng như vậy, mong rằng “hơi nóng” thuế quan sẽ không chặn đà tăng trưởng XK dệt may khi bước vào năm 2026. Nhất là khi nhiều doanh nghiệp (DN) dệt may xác định Mỹ vẫn là thị trường XK chủ lực.
Đánh giá theo mức độ rủi ro thuế quan từ Mỹ, Ts. Trần Toàn Thắng thuộc Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) cho rằng ngành dệt may ở mức độ rủi ro trung bình. Ngành này chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi các cuộc kiểm toán tuân thủ, quy định lao động cưỡng bức và thuế trả đũa tiềm tàng.
Ông Thắng cũng chỉ rõ ngành dệt may Việt Nam phụ thuộc rất cao vào Mỹ khi mà thị trường này chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch XK, trong khi đó mức thuế quan hiện tại đã cao sẵn.
Còn theo ông Đặng Vũ Hùng, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), thách thức từ thuế đối ứng của Mỹ đã đặt ra nhiều giải pháp và cả cơ hội cho ngành dệt may để thích ứng, thâm nhập tốt hơn nữa ở thị trường Mỹ. Đây là thị trường mà các DN dệt may đều quan tâm vì chiếm tới hơn 38% trong tổng kim ngạch XK.
“Hy vọng rằng những giải pháp mà chúng tôi đã đề ra sẽ giúp cho ngành dệt may Việt Nam tiếp tục phát triển trong thời gian tới”, ông Hùng nhấn mạnh.
Nếu nhìn lại thị trường Mỹ trong năm 2025 sẽ thấy vẫn là động lực tăng trưởng chính cho XK dệt may. Thực tế, trước tình hình Mỹ áp thuế đối ứng lên các quốc gia XK, đặc biệt đối với thị trường Việt Nam, hàng dệt may của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng và ước đạt 46 tỷ USD (tăng 5% so với năm 2024), trong đó Mỹ vẫn là thị trường chủ lực với kim ngạch ước đạt trên 18 tỷ USD (tăng khoảng 10%).
Điều này được cho là do được hưởng lợi từ đơn hàng chuyển dịch từ Trung Quốc và mức thuế XK sang Mỹ cạnh tranh so với các đối thủ khác trên thế giới như Ấn Độ (50%), Trung Quốc (thuế bổ sung thêm 30%), Bangladesh và Indonesia cùng chịu mức thuế 20% (tuy nhiên giá trị XK của các thị trường này sang Mỹ thấp hơn Việt Nam) giúp kim ngạch XK dệt may của Việt Nam tăng trưởng tốt.
Hơn thế nữa, nhu cầu sử dụng hàng dệt may của Việt Nam vẫn được ưa chuộng tại Mỹ khi Việt Nam giữ thị phần thứ 2 về giá trị nhập khẩu tại thị trường này.
Trong nhiều tháng liên tiếp của năm 2025, thị phần của Việt Nam luôn ở mức trên 27%, đứng thứ 2 sau Trung Quốc. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn là lựa chọn hàng đầu của thị trường Mỹ về hàng dệt may, qua đó khẳng định vị thế cạnh tranh của Việt Nam so với các nước khác là khá lớn khi năng lực sản xuất hàng hóa đa dạng và hướng tới xu hướng thời trang bền vững (ESG).
“Chìa khóa” tận dụng các FTA
Mặt khác, căng thẳng thương mại khiến các DN dệt may quốc tế chuyển dịch đơn hàng sang các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt tại Việt Nam. Theo báo cáo ngành dệt may toàn cầu năm 2026 từ McKinsey & Company, ngành dệt may thế giới dự kiến đạt mức tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) khoảng 4,5–5,5% vào năm 2026, đặc biệt XK dệt may Việt Nam sẽ tăng trưởng từ 7–10% mỗi năm trong khoảng thời gian này.
Trong khi đó, đối thủ của Việt Nam là Bangladesh đang gặp áp lực lớn do các đơn hàng quốc tế dần dịch chuyển khỏi đất nước này vì lo ngại về bất ổn chính trị và tình trạng thiếu hụt khí đốt và điện năng nghiêm trọng.
Ngoài ra, nhu cầu mua sắm tại Mỹ gia tăng khi doanh thu bán lẻ quần áo tiếp tục tìm đỉnh mới. Mức tồn kho dệt may ở thị trường này giảm liên tục trong năm 2025. Thông thường hàng tồn kho có xu hướng tăng về cuối năm để phục vụ nhu cầu mua sắm lễ hội, điều này làm dấy lên sự lo ngại về chính sách thuế quan của Mỹ khiến các DN hạn chế nhập kho. Tuy nhiên, giới quan sát kỳ vọng rằng trong năm 2026, các đơn hàng sẽ được nhập để bù lại cho phần thiếu hụt này.
Bên cạnh đó, không chỉ với thị trường chủ lực là Mỹ, đà tăng trưởng khi bước vào năm 2026 cho ngành dệt may Việt còn đến từ việc mở rộng thị trường tại các nước thuộc Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia.
Bởi lẽ, lợi thế từ các FTA đem lại cho ngành dệt may Việt Nam là trong dài hạn. Ngoài thị trường XK chủ lực là Mỹ, nhìn lại năm 2025 có thể thấy Việt Nam đã ghi nhận các thị trường có triển vọng XK tốt như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Theo giới chuyên gia, trước chính sách thuế quan của Mỹ, Việt Nam có lợi thế tận dụng mở rộng chuỗi cung ứng tại những thị trường thuộc khối các hiệp định thương mại tự do như CPTPP và FTA. Trong đó cần ghi nhận Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) cho phép giảm 90% thuế nội khối ASEAN và FTA Việt Nam - EU (EVFTA) miễn 94% thuế quan EU, là 2 hiệp định quan trọng thúc đẩy tăng trưởng ngành dệt may trong dài hạn.
RCEP được cho là có giá trị XK cao nhất trong các FTA trong năm 2025, còn với thị trường EU ghi nhận đứng thứ 2 về giá trị XK hàng dệt may tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, vào năm 2026, ngành dệt may Việt Nam cũng cần tận dụng các lợi thế sẵn có để mở rộng thị trường XK. Hiện tại Việt Nam đang bước sang năm thứ 6 thực thi hiệp định EVFTA, đến hết năm thứ 7 thực thi, EU sẽ xóa bỏ gần như toàn bộ thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam.
Ngoài ra, thị trường Nhật Bản (đứng thứ 3 trong XK hàng dệt may của Việt Nam) đang được hưởng ưu đãi thuế quan lên đến 50% trên tổng kim ngạch dựa trên tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) với 4 hiệp định tham gia chung với Việt Nam gồm ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) (C/O khoảng 25%), Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) (C/O khoảng 20%), RCEP (C/O khoảng 5%), CPTPP (C/O khoảng 3-5%).
Với “chìa khóa” từ những ưu đãi mà các FTA mang lại, sẽ là tín hiệu tích cực cho tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam khi bước vào năm 2026 mặc cho “hơi nóng” thuế quan từ Mỹ.
Thế Vinh