Hôm ấy, may mắn thế nào lại gặp đúng đợt tuyết rơi muộn, để lần đầu tiên trong đời tôi được nhìn thấy tuyết. Tôi ngẩn người trước những bông tuyết li ti rơi nhẹ nhàng, mỏng mảnh giống như mưa phùn sau Tết ở nhà.
Khi xe vào tới khu tập thể, nơi người Việt ở đông nhất thời ấy, trước mắt tôi là cả một khoảng sân rợp sắc hoa vàng - loài hoa giống hoa thủy tiên, nở rộ trên thảm cỏ xanh mướt. Tôi ấn tượng ngay với loài hoa ấy vì nó vừa lạ lẫm, lại rất đỗi thân quen.
Tác giả Hùng Lý tại Đức
Sau này tôi mới biết, loài hoa đó chỉ nở vào tháng 3, giống như hoa xuyên tuyết: bật mầm và vươn lên trong giá lạnh, nở bừng như tín hiệu báo xuân sang. Cũng giống như phận đời của tôi và bao người Việt nơi xứ người - phải nỗ lực vươn lên trong gian khó, trên mảnh đất xa lạ ấy.
Đến tận bây giờ, sau hơn 30 năm sống ở Đức, mỗi lần thấy sắc hoa vàng ấy, tôi như sống lại thời mới sang.
Tôi sang Đức lúc 37 tuổi - cái tuổi vừa đủ mạnh mẽ để làm lại từ đầu, nhưng cũng đủ trưởng thành để thấm thía cảm giác bơ vơ.
Trước đó, ngoài mấy năm đi bộ đội được xem là vất vả, thời gian còn lại của tôi là học hành rồi làm cán bộ ở một viện khoa học, nghiên cứu ngôn ngữ và văn chương. Cuộc sống thanh bần, thu nhập ít ỏi nhưng được cái nhàn nhã.
Tôi vốn an phận, chẳng muốn tranh giành, không thích đố kỵ. Cách sống ấy, lối nghĩ ấy là đặc trưng cho tính cách của người Hà Nội sống ở thời bao cấp: nghèo cũng được, khổ cũng được, miễn yên ổn là được. Nhưng sang đến đất nước này - một nước tư bản - tôi mới thật sự đối diện câu hỏi: làm gì để sống?
Tôi hỏi những người sang trước. Họ bảo: Anh nhìn quanh đi. Người ta làm gì thì mình làm nấy, lo gì. Ai ở đây, nếu chịu khó, đều kiếm được tiền hết.
Tác giả mở hàng ăn tại Đức
Tôi nhìn, và… sợ. Quanh chỗ tôi ở, những nơi tôi đi qua - nhà ga, bến xe, trước các siêu thị… thấy nhiều người bán thuốc lá lậu.
Nghề đó thời ấy phổ biến nhất, dễ kiếm tiền nhất...
Không biết làm gì khác, tôi cũng theo bạn bè xuống đường bán thuốc.
Nhưng ngay lần đầu, khi còn đang đi trên đường, thuốc còn mang trên người, chưa kịp bỏ ra bán, tôi đã bị công an và thuế vụ bắt. Hàng mất, vốn mất, bị phạt tiền, nhưng đó mới là chuyện nhỏ. Nặng nhất là cái án 90 ngày tù treo.
Dù không phải ngồi tù ngày nào, nhưng án ấy khiến giấy cư trú của tôi bị treo mấy năm trời, vất vả, lo âu, tốn kém vô cùng tận. Nhìn lại, tôi thấy đúng là xui. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, có khi đó cũng là cái may. Bị bắt sớm nên tôi không dính sâu vào nghiệp buôn hàng lậu.
Không buôn lậu được thì phải tìm đường khác. Thế là tôi quay sang nghiệp bếp núc.
Hồi đó chưa có internet, chưa có điện thoại thông minh, mà tôi lại không biết nghề bếp. Muốn nấu phở, nấu bún, nấu sốt vang…, tôi phải ra buồng điện thoại công cộng gọi về nhà. Người thân đọc công thức, tôi ghi vội, còn đồng hồ cước thì nhảy liên tục.
Vài phút tốn khá nhiều tiền. Xót, nhưng tôi đành chịu. Căn hộ tôi thuê để bán hàng ăn không có bếp, không có bồn rửa. Mọi việc nấu nướng, rửa đồ đều phải dùng nhờ bếp chung trong khu tập thể. Để tiện cho mình, tiện cho người, lại có không gian rộng rãi, tôi phải chọn lúc mọi người còn chưa thức dậy hoặc đã ngủ hết mới ra đó làm.
Mỗi sáng, tôi dậy thật sớm, đi qua hành lang dài hun hút với ánh đèn vàng nhạt, lạnh lẽo và im ắng như bệnh viện. Tôi lén ninh xương, kho thịt thật nhẹ tay, sợ tiếng xoong nồi động mạnh làm mọi người thức giấc. Có những hôm tôi nhìn ra cửa sổ, tuyết rơi trắng trời trắng đất, chạnh lòng nhớ nhà.
Đêm đến, khi mọi người đã say giấc, tôi lại mang xoong nồi, bát đĩa ra rửa dưới vòi nước lạnh buốt. Những lúc ấy, đứng một mình với đống nồi niêu lỉnh kỉnh, trong không gian rộng của căn bếp tập thể, tôi thấy mình nhỏ bé, cơ cực. Có những đêm tôi tủi thân đến mức vừa rửa bát vừa lặng lẽ khóc. Nhưng rồi việc bán đồ ăn trong khu cũng đem lại những trái ngọt đầu tiên.
Mỗi tối, sau khi đóng cửa, tôi ngồi xuống bàn, mở hộp đựng tiền và đếm. Chỉ 1 ngày thôi mà số tiền thu được bằng mấy tháng lương của tôi trước kia. Thế là bao mệt nhọc như tan biến. Tôi biết mình đang đi đúng đường. Dù vất vả, chật vật nhưng là con đường thiện lương, lại hợp với cái thú thích nấu nướng của mình. Tôi vẫn kiếm được tiền, dù không nhiều như buôn thuốc lá, nhưng an toàn.
Sau đó, có chút vốn, tôi mở quán ngoài phố, bán đồ ăn cho Tây. Ban đầu tôi nấu đồ Tàu, đồ Thái. Sau đó, khi ẩm thực Việt lên ngôi, tôi bán bún, bán phở. Thấy quán đông khách, tôi mở thêm quán nữa. Có thời điểm tôi thuê cả chục người làm.
Từ đó, cuộc sống của tôi ổn định dần: có của ăn của để, giúp đỡ được gia đình, mỗi năm cả nhà lại đi du lịch 1-2 lần, không về Việt Nam thì đi khám phá châu Âu. Cuộc sống không giàu sang nhưng sung túc, bình yên, nhìn lên chẳng bằng ai, nhìn xuống cũng còn có người không may mắn bằng mình.
Sang xứ người khi tuổi không còn trẻ, không nghề nghiệp, không giỏi tiếng, lạ nước lạ cái, thân cô thế cô… mà vẫn gây dựng được cuộc sống như hôm nay, với tôi, thế cũng tạm gọi là thành công.
Đó là thành công mang mùi xương ninh buổi sáng, tiếng nước chảy lúc đêm khuya, ánh đèn vàng khu tập thể, và cả sắc vàng lặng lẽ của những bông hoa thủy tiên ngày đầu đặt chân tới nước Đức.
Hùng Lý