Trước khi bước qua ngưỡng cửa nhà chồng, cô dâu chú rể được làm lễ rửa chân theo nghi thức tâm linh của người Thái. Ảnh: RĐ
Ở rể - lời tri ân với cha mẹ vợ
Miền Tây Nghệ An chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên của tỉnh, là nơi cư trú của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó đông nhất là Thái, Mông, Khơ mú và Thổ. Giữa núi rừng đại ngàn, mỗi tộc người đều có những phong tục cưới hỏi riêng, trong đó, tục ở rể của người Thái và Khơ mú là một nét đẹp đặc biệt.
Theo quan niệm xưa, con gái khôn lớn nên người là nhờ công dưỡng dục vất vả của cha mẹ. Bởi vậy, trước khi chính thức cưới vợ, chàng trai phải về ở nhà cha mẹ vợ một thời gian để "trả công nuôi dưỡng". Trong khoảng thời gian ấy, anh không chỉ giúp việc nương rẫy, chăn nuôi mà còn thể hiện lòng hiếu kính, trách nhiệm đối với gia đình bên vợ.
Người Thái thường tổ chức rước dâu vào ban đêm, khi ấy của hồi môn từ nhà gái cũng được trai bản gánh theo về nhà chồng.
Bà Lữ Thị Vinh (63 tuổi, xã Tri Lễ, tỉnh Nghệ An) chia sẻ: "Ngày xưa, con rể Khơ mú thường phải ở rể một, hai năm. Thời gian dài hay ngắn tùy sự thỏa thuận giữa hai gia đình. Nhờ vậy, cha mẹ vợ có thời gian nhìn nhận kỹ con người của chàng rể, trước khi yên tâm gả con gái".
Trong ngôi nhà sàn của mình, bà Vinh luôn chuẩn bị một căn phòng riêng để đón con rể ở rể. Bởi theo tục lệ, trong thời gian này, đôi trẻ chưa được coi là vợ chồng thực sự.
Anh Lữ Văn Đào (41 tuổi, cùng xã) từng trải qua một năm ở rể trước khi cưới vợ. Anh kể: "Lúc ấy, tôi coi như người trong nhà vợ, từ việc chăn nuôi đến công việc chung của bản cũng đều góp sức. Đây cũng là quãng thời gian gia đình chuẩn bị lễ cưới. Mấy năm gần đây, nhiều nơi đã rút ngắn, thậm chí chỉ còn ở rể mang tính tượng trưng, nhưng ý nghĩa tri ân thì vẫn còn mãi".
Cũng như người Khơ mú, tục ở rể của người Thái nay đã giản lược hơn. Chị Lô Thị Lan (xã Tương Dương) cho biết, phần vì cuộc sống hiện đại, phần vì con trai con gái đi học, đi làm xa quê, nên thời gian ở rể thường rút ngắn nhiều so với trước.
Của hồi môn và nghi lễ rước dâu trong lành
Trong phong tục cưới hỏi của người Thái ở Nghệ An, từ lễ dạm ngõ (đám cưới nhỏ) đến lễ cưới chính (đám cưới lớn) thường kéo dài khoảng một năm. Khoảng thời gian ấy, cô dâu phải tự tay chuẩn bị của hồi môn cho cuộc hôn nhân của mình: Từ hái bông lau, phơi khô để làm chăn bông, gối; đến cắt cói dệt chiếu; rồi may váy áo, khâu đệm…
Chị Sầm Thị Trang (xã Châu Hồng) kể: "Ngày trước, con gái Thái mất hàng tháng trời đi rừng hái vật liệu, gói ghém từng món làm của hồi môn. Giờ thì mọi người thường mua sẵn ngoài chợ, nhưng nét đẹp khéo léo và tấm lòng của người con gái gửi vào những món quà tự tay chuẩn bị vẫn luôn được coi trọng".
Người Thái luôn coi trọng lễ cưới, trước kia thường kéo dài suốt 3 ngày, nhưng nay đã được giản lược chỉ còn trong 1 ngày.
Trong ngày cưới, những vật dụng ấy sẽ được bà con gánh đến nhà trai. Cô dâu mang theo không chỉ chăn, gối, váy áo cho mình, mà còn cả những món quà tặng riêng cho từng thành viên trong gia đình chồng - như một lời chào trân trọng của người con dâu mới.
Một nét độc đáo khác là nghi lễ rước dâu vào lúc rạng đông. Người Thái quan niệm thời khắc chuyển giao giữa đêm và ngày trong lành, linh thiêng, ít tà khí, mang lại nhiều phúc lộc cho đôi trẻ. Chị Lan giải thích: "Ngày xưa, cứ gà gáy là đoàn rước dâu lên đường. Bây giờ người ta tính theo giờ đẹp, có thể là ban ngày hoặc ban đêm. Nhưng ý nghĩa sâu xa thì vẫn vẹn nguyên".
Đặc biệt, khi cô dâu chú rể bước chân về đến cầu thang nhà sàn, nghi lễ "rửa chân dâu rể" sẽ được thực hiện. Gia đình chuẩn bị sẵn hai đồng bạc, hai chiếc nồi nhỏ bằng đồng, cùng ống nứa đựng nước đặt ở chân cầu thang. Nghi lễ ấy mang ý nghĩa gột rửa bụi trần, xua đi điều không may, để đôi vợ chồng trẻ bắt đầu cuộc sống mới với sự tinh khôi, an lành. Sau đó, mẹ chồng sẽ đón con dâu bước vào căn buồng mới cưới - mở ra một hành trình hạnh phúc trọn đời.
Giữa nhịp sống hiện đại đang len lỏi về miền núi, nhiều phong tục cưới hỏi ở vùng cao Nghệ An đã được giản lược cho phù hợp. Nhưng những nét văn hóa giàu ý nghĩa như ở rể, chuẩn bị của hồi môn, nghi lễ rước dâu rạng đông… vẫn còn đó như một phần hồn cốt của văn hóa Thái. Chúng không chỉ là nghi thức cưới hỏi, mà còn là sự gửi gắm đạo lý "uống nước nhớ nguồn", là tình cảm thiêng liêng mà người miền núi dành cho tổ tiên và cho cuộc sống vợ chồng bền chặt.
Đình Nguyên