Một homestay cổ tại thôn Lô Lô Chải. Ảnh: Thủy Lê
Nét nguyên sơ dưới lá cờ Tổ quốc
Từ trung tâm xã Đồng Văn, tỉnh Tuyên Quang ngược lên phương trời gió đá, con đường như dải lụa xám vắt ngang giữa tầng tầng lớp lớp núi đá tai mèo điệp trùng. Gió lạnh hun hút, mây trắng quẩn quanh những vạt rừng sa mộc. Càng lên cao, không gian càng nguyên sơ, bảng lảng như đang đi trong cõi mơ. Từ xa, cột cờ Lũng Cú hiện lên giữa nền trời xanh thẳm, lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới giữa biên cương ngàn gió. Ngay dưới chân cột cờ linh thiêng ấy, thôn Lô Lô Chải hiện ra như một nốt nhạc trầm dịu, lặng lẽ mà kiêu hãnh, lưu giữ linh hồn của cực Bắc Tổ quốc từ bao đời nay.
Ngôi làng nhỏ ấy được thế giới biết đến với danh hiệu “Làng du lịch tốt nhất thế giới 2025”, nhưng với những người đã đặt chân đến đây, Lô Lô Chải trước hết là một miền ký ức trong trẻo, một vẻ đẹp mộc mạc mà say lòng, nơi thời gian dường như chậm lại trước những bức tường đất vàng, mái ngói âm dương và khói bếp lam chiều. Cả thôn Lô Lô Chải có hơn 120 hộ dân, chủ yếu là đồng bào Lô Lô, trong đó, 56 hộ tham gia du lịch cộng đồng. Những nếp nhà nơi đây hầu hết là trình tường cổ, tường bằng đất nện dày, vàng ấm, đứng hiên ngang giữa gió đá hàng trăm năm. Có ngôi nhà mới đôi chục năm tuổi, nhưng cũng có nhà đã vượt qua hơn hai thế kỷ. Giữa làng, lối ngõ nhỏ lát đá cuội. Hai bên, những hàng rào đá xếp bằng tay theo kiểu truyền thống, viên lớn, viên nhỏ ken vào nhau mà bền chặt như chính nếp người nơi đây: mộc nhưng vững, trầm nhưng không hề tắt lửa sống. Tiếng khèn, tiếng trống đồng của người Lô Lô nhiều khi bất chợt ngân lên rồi lắng xuống, để lại trong không gian thứ âm vang vừa huyền bí, vừa thiêng liêng, úp vào triền đá, vin vào gió biên cương.
Chính sự cô đọng trong đời sống đã khiến văn hóa Lô Lô đặc biệt bền chặt. Người Lô Lô xem trống đồng là vật thiêng. Trong lễ hội, tiếng trống ngân lên như tiếng tổ tiên vọng lại từ ngàn xưa. Còn trang phục Lô Lô là một trong những bộ áo vá thủ công kỳ công nhất vùng cao, đầy sắc màu, đầy kiêu hãnh, như bông hoa rực rỡ nở trên nền núi đá. Ẩm thực Lô Lô cũng mộc như đất, trong như sương, nhưng đầy bản sắc với những món ăn như thắng dền, mèn mén, bánh mật ong rừng, rượu ngô men lá... Du khách đến Lô Lô Chải không chỉ “xem” văn hóa, mà được sống trong văn hóa, cùng nhóm lửa, giã bánh, nhuộm vải, rồi ngồi giữa sân đá nghe già làng kể chuyện cột cờ, chuyện biên giới, chuyện ông cha giữ đất. Chị Nguyễn Thị Vân Anh là một Việt Kiều đến từ Canada, cho biết: “Tôi đã đi du lịch nhiều nước trên thế giới và nhiều nơi trên đất nước Việt Nam, nhưng điều mà tôi thích thú khi tới Lô Lô Chải chính là được ở homestay đúng nghĩa, giao lưu, tìm hiểu về đời sống và văn hóa bản địa".
Hành trình đánh thức giấc ngủ của ngôi làng đá
Ít ai biết rằng, trước khi trở thành điểm đến nổi tiếng như hôm nay, thôn Lô Lô Chải từng là một trong những bản làng khó khăn nhất vùng cao nguyên đá. Ngày ấy, đường đi còn gập ghềnh, mùa mưa sạt lở, mùa đông giá buốt. Cả thôn chỉ quẩn quanh với vài nương ngô, nương lúa cằn cỗi; trai tráng nhiều người rời bản vào Nam làm thuê, để lại khoảng trống trong những sân nhà gió lùa. Vùng đất dưới chân cột cờ linh thiêng ấy dường như chỉ lặng lẽ tồn tại, chứ chưa thật sự “sống”.
Vẻ đẹp của các thiếu nữ Lô Lô. Ảnh: Thủy Lê
Năm 2011, khi chủ trương làm du lịch cộng đồng được triển khai, cả thôn bỡ ngỡ. Du lịch với người Lô Lô khi ấy là khái niệm xa lạ. “Nhà đất vàng thế này, khách nào họ ngủ?”, một cụ già từng hỏi, nửa đùa nửa thật. Giữa hành trình đổi thay ấy, hình ảnh người lính quân hàm xanh của Đồn Biên phòng Lũng Cú hiện lên lặng lẽ mà bền bỉ. Họ là những người đầu tiên có mặt trong buổi tuyên truyền làm du lịch văn minh; là người đồng hành khi bản vận động xóa hủ tục, giữ gìn môi trường hay đến từng ngõ, gõ cửa từng nhà để chỉ cách làm homestay, tiếp khách, giữ vệ sinh, giữ nếp văn hóa... đã chậm rãi gieo vào cộng đồng một mầm xanh mới. Khó nhất không phải chuyện sửa nhà hay làm phòng, mà là thay đổi tư duy. Người Lô Lô dần nhận ra một điều, muốn du khách yêu bản, trước hết, mình phải yêu văn hóa của chính mình, phải tự hào với bộ áo váy thủ công của cha ông, phải giữ bếp lửa, giữ hàng rào đá, giữ tiếng trống đồng và nếp ăn ở tử tế, chân thật. Từ đó, hành trình chuyển mình bắt đầu.
Những ngôi nhà trình tường có tuổi đời hàng trăm năm được dọn dẹp, sửa sang nhưng không thay cốt đổi hồn. Trong 37 ngôi nhà cổ, có đến 28 ngôi được sử dụng làm homestay, nhưng điều đáng quý là người Lô Lô không “đánh đổi văn hóa để lấy du lịch”. Những homestay nơi đây không bê tông hóa, không hiện đại hóa quá mức, mà giữ y nguyên kiến trúc truyền thống, chỉ thêm ánh sáng, thêm chăn ấm, thêm bữa cơm ngon để đón bạn đường xa. “Chúng tôi chỉ thay những thứ phải thay như giường, chăn, đệm; còn lại, cái gì là của tổ tiên thì bằng mọi giá giữ nguyên” - anh Sình Dỉ Gai, trưởng thôn cũng là chủ một homestay nói.
Du lịch đến, cái nghèo lùi dần. Nhưng điều kỳ diệu nhất chính là niềm tự hào văn hóa trở lại trong từng mái nhà. Phụ nữ hồ hởi ngồi dệt thổ cẩm mỗi chiều. Đàn ông chăm lại trống đồng, sáo, khèn. Lũ trẻ lớn lên biết chào khách, biết múa điệu truyền thống, biết rằng văn hóa khiến bản làng mình đẹp hơn, đáng sống hơn. Du lịch cũng mang lại nguồn thu mới, giúp bà con thoát nghèo, nhưng sâu xa hơn, nó đánh thức lòng tự hào bản sắc. Thanh niên không còn rời bản đi làm xa, ở lại gìn giữ nghề dệt, giữ lễ hội, giữ nếp nhà. Những giá trị tưởng như mong manh nhất lại trở thành điều bền vững nhất.
Giờ đây, khi đã trở thành “Làng du lịch tốt nhất thế giới 2025”, Lô Lô Chải không còn là “miền xa xôi trong bản đồ du lịch Việt Nam”, mà là điểm hẹn của những ai muốn tìm một vẻ đẹp nguyên bản, hoang sơ, tử tế. Homestay sáng đèn mỗi tối. Tiếng nói cười xen tiếng gà gáy, tiếng lá rừng và tiếng gió biên cương. Từ giấc ngủ dài bên núi đá, Lô Lô Chải đã tự đánh thức mình bằng chính nội lực văn hóa chảy trong huyết quản bao đời. Và điều đẹp nhất, ngôi làng ấy đổi thay mà không đánh mất mình. Du lịch đem lại thu nhập, nhưng nếp sống, nếp người vẫn thuần hậu như thuở xưa. Con đường đi lên của Lô Lô Chải, vì thế, không phải con đường “bán vẻ đẹp lấy lợi nhuận”, mà là hành trình giữ hồn để làm giàu.
Thủy Lê