Hơn nửa triệu người Việt chết mỗi năm vì 'đại dịch âm thầm'

Hơn nửa triệu người Việt chết mỗi năm vì 'đại dịch âm thầm'
11 giờ trướcBài gốc
Chia sẻ tại Hội nghị khoa học quốc tế lần thứ 2 – năm 2025 với chủ đề “Chuyển đổi số hướng đến hệ thống y tế thông minh” do Bệnh viện Lê Văn Thịnh (TP.HCM) tổ chức hôm nay (25.10), GS-TS-BS Nguyễn Trung Kiên – Trường Đại học Y Dược Cần Thơ - khẳng định: “Các bệnh mạn tính đang trở thành gánh nặng sức khỏe và kinh tế khổng lồ của thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam”.
Hơn 84% ca tử vong ở Việt Nam do bệnh mạn tính
Theo thống kê, bệnh mạn tính là nguyên nhân tử vong hàng đầu toàn cầu. Riêng tại Việt Nam, mỗi năm có 592.000 người chết vì bệnh mạn tính, tương đương 84,1% tổng số ca tử vong.
Mỗi năm Việt Nam có 592.000 người chết vì bệnh mạn tính, tương đương 84,1% tổng số ca tử vong - Ảnh: minh họa
Cụ thể, các bệnh gây tử vong cao nhất gồm: Bệnh tim mạch, chiếm 20,5%; ung thư, chiếm 13,3%; bệnh hô hấp mạn tính, chiếm 4,9%; đái tháo đường, chiếm 3,9%. “Những con số này phản ánh thực trạng đáng báo động. Cứ 10 người Việt chết thì có hơn 8 người vì bệnh mạn tính, phần lớn trong số đó hoàn toàn có thể phòng ngừa được”, giáo sư Kiên nhấn mạnh.
Không chỉ phổ biến, các bệnh mạn tính còn liên quan chặt chẽ với nhau, tạo thành vòng xoáy bệnh lý khó thoát.
Theo giáo sư Nguyễn Trung Kiên, “Tim mạch – Thận – Chuyển hóa” là bộ 3 bệnh lý chồng chéo, tác động qua lại làm tăng nhanh nguy cơ tử vong. Người bị đái tháo đường thường có rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, khiến thận và tim bị tổn thương. Ngược lại, bệnh nhân suy thận mạn hay bệnh tim mạch lại dễ mắc tiểu đường và rối loạn chuyển hóa. “Cứ mỗi cơ quan suy yếu lại kéo theo các cơ quan khác suy theo – một hiệu ứng domino chết người”, giáo sư Kiên nói.
Theo nghiên cứu, chi phí điều trị bệnh mạn tính chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng chi y tế. Ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 kèm bệnh tim mạch, chi phí trung bình tăng thêm 19,5 USD mỗi năm/bệnh nhân, trong khi chi phí nhập viện, điều dưỡng, chăm sóc hậu cấp cứu tăng gấp 5–6 lần. “Người bệnh không chỉ mất tiền thuốc mà còn mất thu nhập, ảnh hưởng đến gia đình và xã hội”, giáo sư Kiên phân tích.
Tại Việt Nam, nhóm bệnh mạn tính chiếm hơn 73% tổng gánh nặng bệnh tật quốc gia, làm giảm năng suất lao động, gia tăng chi phí an sinh, và đe dọa tính bền vững của hệ thống y tế. Đặc biệt, các hộ nghèo có người mắc bệnh mạn tính chiếm tới 25% chi tiêu hàng tháng cho thuốc men, dễ rơi vào bẫy nghèo y tế.
Kết quả điều tra STEPS (điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm) 2021 của Bộ Y tế cho thấy, người Việt đang mang trong mình nhiều yếu tố nguy cơ “âm thầm”. Cụ thể, thừa cân – béo phì, gần 20%; tăng huyết áp, chiếm hơn 33% ở nam, 19% ở nữ; tăng đường huyết, chiếm 7,3% ở nam, 6,4% ở nữ; tăng cholesterol máu, chiếm 38,8% ở nam, 49,3% nữ.
Tỷ lệ béo phì, tăng mỡ máu và đái tháo đường ngày càng tăng ở nhóm tuổi trẻ, phản ánh lối sống ít vận động, ăn nhiều đạm – đường – chất béo và áp lực công việc đô thị hóa. “Chúng ta đang chứng kiến một xã hội “trẻ hóa” bệnh tật: người 30–40 tuổi đã mắc bệnh mà trước đây chỉ gặp ở người 60 tuổi”, giáo sư Kiên cảnh báo.
Nghiên cứu khoa học - “chìa khóa vàng” quản lý bệnh mạn tính hiệu quả
Theo giáo sư Nguyễn Trung Kiên, nghiên cứu khoa học y học không chỉ giúp tìm hiểu nguyên nhân mà còn thay đổi hoàn toàn cách điều trị và phòng ngừa bệnh mạn tính.
Thực tế cho thấy, có 5 vai trò cốt lõi của nghiên cứu : Hiểu rõ cơ chế bệnh sinh - xác định nguyên nhân gốc của bệnh tim mạch, thận, chuyển hóa; quản lý mô hình bệnh tật giúp Bộ Y tế xây dựng chính sách tầm soát và điều trị phù hợp; phát triển thuốc và liệu pháp mới- mở ra hy vọng sống cho hàng triệu bệnh nhân; đánh giá hiệu quả kinh tế y tế giúp tiết kiệm ngân sách, tối ưu nguồn lực; thúc đẩy y tế dự phòng - phòng bệnh hơn chữa bệnh. “Không có nghiên cứu khoa học, mọi quyết định y tế đều là phỏng đoán,” ông Kiên khẳng định.
Trong y học hiện đại, có hai dạng nghiên cứu chính là thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và dữ liệu đời thực. Trong đó, thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng là giúp đánh giá hiệu quả, và độ an toàn của thuốc trong điều kiện lý tưởng; còn dữ liệu đời thực là phản ánh hiệu quả điều trị trong điều kiện thực tế, nơi bệnh nhân có nhiều bệnh nền, tuổi cao hoặc không đủ tiêu chuẩn RCT ( thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên). “Dữ liệu đời thực giúp hiểu rõ hơn độc tính, tác dụng phụ và hiệu quả lâu dài của thuốc trên các nhóm dân số đặc thù”, giáo sư Kiên giải thích.
Kết hợp hai nguồn dữ liệu này, bác sĩ có thể đưa ra quyết định điều trị vừa khoa học, vừa thực tế, mang lại lợi ích lớn nhất cho người bệnh.
Trong bối cảnh hội nhập, giáo sư Kiên cho rằng chuyển đổi số chính là “đòn bẩy chiến lược” để Việt Nam rút ngắn khoảng cách nghiên cứu với thế giới. Nhờ hồ sơ sức khỏe điện tử, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), hệ thống y tế có thể thu thập thông tin bệnh tật theo thời gian thực; phân tích xu hướng mắc bệnh theo vùng, giới, độ tuổi; dự báo nguy cơ bùng phát bệnh mạn tính; hỗ trợ ra quyết định điều trị chính xác hơn. “Khi dữ liệu y tế được số hóa, Việt Nam có thể tiến gần hơn tới mô hình y tế thông minh, giúp kiểm soát bệnh mạn tính hiệu quả, tiết kiệm và bền vững”, giáo sư Kiên nhấn mạnh.
Giáo sư Nguyễn Trung Kiên cảnh báo: “Bệnh mạn tính đang là đại dịch âm thầm. Nó không ồn ào như COVID-19, nhưng gây hậu quả sâu sắc và lâu dài hơn gấp nhiều lần.”
Ông cho rằng, cần hành động sớm và toàn diện, bao gồm: đưa tầm soát bệnh mạn tính thành chương trình quốc gia; tăng cường nghiên cứu dựa trên dữ liệu Việt Nam; ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý bệnh nhân; nâng cao nhận thức cộng đồng về lối sống lành mạnh; đào tạo đội ngũ y bác sĩ trẻ làm chủ công nghệ và nghiên cứu. “Không có giải pháp khoa học, chúng ta sẽ mãi chạy theo điều trị và không bao giờ đủ sức cứu người”, ông Kiên nói.
Hồ Quang
Nguồn Một Thế Giới : https://1thegioi.vn/hon-nua-trieu-nguoi-viet-chet-moi-nam-vi-dai-dich-am-tham-240292.html