Làm rõ mô hình “Đại học quốc gia” và “Đại học vùng”
Qua nghiên cứu Tờ trình của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa và Xã hội và hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; dự án Luật Giáo dục Đại học; dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), các đại biểu thống nhất cho rằng, việc sửa đổi 3 dự án nhằm thể chế hóa kịp thời và đầy đủ các nghị quyết của Trung ương về giáo dục.
Góp ý cụ thể vào dự án Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi), một số ý kiến cho rằng, dự thảo đã có bước tiến lớn khi đưa vào nhiều khái niệm hiện đại như tự do học thuật, liêm chính học thuật, giáo dục đại học số, năng lực số, trí tuệ nhân tạo. Đây là điểm cộng rõ rệt so với Luật năm 2012 và Luật sửa đổi 2018, phù hợp với xu hướng Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, ĐBQH Trần Văn Tiến (Phú Thọ) cho rằng, cần bổ sung một số nội dung trong phạm vi điều chỉnh nhằm bao quát hết nội hàm của dự thảo luật. Cụ thể, bổ sung cụm từ “kiểm định chất lượng; tài chính, tài sản”, đồng thời, tại Điều 6 có quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục đại học để bảo đảm sự thống nhất nên thể hiện lại là: Luật này quy định về hoạt động giáo dục đại học; tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học kiểm định chất lượng; tài chính, tài sản; quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục đại học; trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Bên cạnh đó, đại biểu Trần Văn Tiến cũng đề nghị giải thích bổ sung các cụm từ sau: 1) Cơ sở giáo dục Đại học, cơ sở như thế nào được gọi là cơ sở giáo dục đại học; 2) hoạt động của cơ sở giáo dục đại học gồm những hoạt động nào; “sứ mạng” của cơ sở giáo dục đại học là thế nào; giảng viên cơ hữu; giảng viên đồng cơ hữu; giảng viên thính giảng;...
Về cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục khác có hoạt động giáo dục đại học (Điều 11), ĐBQH Hà Ánh Phượng (Phú Thọ) đề nghị, tại điểm c, khoản 2 cần làm rõ mô hình “Đại học quốc gia” và “Đại học vùng”. Đồng thời, cần định nghĩa rõ ràng hơn về cơ chế hoạt động, sự khác biệt trong quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ với các trường thành viên để tránh chồng chéo, tạo sự đồng bộ trong hệ thống.
ĐBQH Hà Ánh Phượng phát biểu
Về điều khoản chuyển tiếp (Điều 46), theo dự thảo, Hội đồng đại học, hội đồng trường của cơ sở giáo dục công lập sẽ chấm dứt hoạt động và bàn giao hồ sơ trong vòng 3 tháng kể từ ngày luật có hiệu lực. Song, đại biểu Hà Ánh Phượng nhận định, thời hạn này quá ngắn và thiếu tính khả thi, có thể gây xáo trộn trong tổ chức, ảnh hưởng đến quy trình bổ nhiệm, nhân sự, tài chính và công tác giảng dạy. Do đó, đề nghị nghiên cứu kéo dài thời hạn chuyển tiếp để cán bộ, giảng viên kịp thời thích ứng, bảo đảm việc bàn giao diễn ra ổn định, không làm gián đoạn hoạt động của các cơ sở giáo dục.
Phân luồng học sinh linh hoạt phù hợp với thực tiễn địa phương
Một trong những nội dung được các đại biểu đặc biệt quan tâm chính là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục. ĐBQH Hà Ánh Phượng (Phú Thọ) cho rằng, Dự thảo đặt ra nhiều chính sách tiến bộ: điện tử hóa văn bằng/chứng chỉ, thúc đẩy chuyển đổi số, tăng cường phân luồng và hướng nghiệp trong giáo dục, quy định rõ nhân sự hỗ trợ giáo dục. Đây là xu hướng cần thiết để hiện đại hóa hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, đại biểu chỉ rõ, theo Điều 1, khoản 3 về sửa đổi, bổ sung Điều 12 Dự thảo Luật: “Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân gồm bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, bằng trung học nghề, bằng trung cấp, bằng cao đẳng, bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và văn bằng trình độ tương đương”, không còn bằng THCS.
Theo đại biểu, trên thế giới một số quốc gia không cấp bằng cho các chương trình bắt buộc của hệ thống giáo dục quốc dân đặc biệt là ở các nước châu Âu mà chỉ cấp giấy chứng nhận hoàn thành. Tuy nhiên, bối cảnh Việt Nam hiện tại vẫn nên giữ bằng THCS. Bởi theo đại biểu, bằng THCS nhằm khẳng định hoàn tất giáo dục bắt buộc một cách mạnh mẽ, là căn cứ pháp lý cho phân luồng học sinh, phù hợp với thông lệ quốc tế, giữ tính liên tục và thống nhất của hệ thống văn bằng quốc gia, có thể hiện đại hóa và số bằng cách chuyển sang dạng điện tử hoặc số.
“Về bản chất - Bằng tốt nghiệp THCS là sự xác nhận hoàn tất giai đoạn giáo dục bắt buộc Việt Nam, giáo dục phổ cập bắt buộc hiện nay đến hết cấp THCS, tức lớp 9. Do đó, việc cấp bằng tốt nghiệp THCS không chỉ là chứng nhận “hoàn thành chương trình học”, mà còn là công cụ pháp lý để chứng minh nghĩa vụ học tập bắt buộc của công dân đã được hoàn tất” - đại biểu Hà Ánh Phượng nói.
Cũng theo đại biểu, nếu chỉ cấp “giấy chứng nhận hoàn thành chương trình THCS” thay vì “bằng”, thì giá trị pháp lý của nó sẽ yếu hơn, dễ gây nhầm lẫn giữa hoàn thành chương trình và hoàn thành nghĩa vụ giáo dục bắt buộc. Hơn nữa, điều này có ý nghĩa nhân văn với nhiều học sinh khu vực khó khăn, miền núi, hải đảo vì nhiều lý do nên không thể theo tiếp được ở cấp trung học phổ thông. Đặc biệt, nếu không có bằng tốt nghiệp THCS, Việt Nam không thể đối chiếu đầy đủ với Khung tham chiếu trình độ ASEAN (AQRF) ở mức trình độ nền tảng, gây mất tính tương thích khi so sánh hoặc công nhận lẫn nhau về bằng cấp trong khu vực.
Nhất trí việc quy định văn bằng dưới dạng điện tử hoặc số là rất hiện đại, phù hợp với xu thế chuyển đổi số và tạo thuận lợi cho việc quản lý, xác minh. Tuy nhiên, đại biểu Hà Ánh Phượng đề nghị, cần có quy định rõ ràng về giá trị pháp lý, tính bảo mật, chống giả mạo của văn bằng điện tử/số và cơ chế quản lý dữ liệu văn bằng quốc gia để đảm bảo an toàn và minh bạch như việc tạo mẫu phôi điện tử, chống giả và gắn kết với Cơ sở dữ liệu quốc gia về học tập, để tra cứu.
Đồng tình với quan điểm đại biểu Hà Ánh Phượng, ĐBQH Lê Tất Hiếu (Phú Thọ) đề nghị, nếu không có kỳ thi tốt nghiệp, thì không nên quy định “tốt nghiệp THCS” mà chỉ nên xác nhận “hoàn thành chương trình THCS”, để phản ánh đúng bản chất đánh giá năng lực học sinh. Bên cạnh đó, đại biểu cũng đề nghị không nên quy định cứng độ tuổi vào học lớp 10 là 15 tuổi, mà cần điều chỉnh thành “từ 15 tuổi trở lên”, nhằm bảo đảm tính linh hoạt và bao quát cho những trường hợp học sinh học chậm, nghỉ học gián đoạn hoặc học chương trình khác tương đương.
ĐBQH Lê Tất Hiếu phát biểu
Theo ĐBQH Lê Tất Hiếu (Phú Thọ), tại khoản 3, Điều 9 quy định: “3. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chi tiết hướng nghiệp và phân luồng trong lĩnh vực giáo dục”. Thực tiễn cho thấy, việc phân luồng 40% học sinh THCS đi học nghề và 60% tiếp tục học THPT công lập tạo ra áp lực rất lớn cho các kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 hàng năm. Đặc biệt, trong quá trình triển khai, nhiều địa phương gặp khó khăn vì tỷ lệ cứng nhắc, chưa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu học tập thực tế.
Đại biểu đề nghị, nên cho phép tỷ lệ học sinh tiếp tục học THPT cao hơn, tạo điều kiện để các em được rèn luyện, phát triển nhân cách toàn diện trong giai đoạn trước 18 tuổi. Dù vậy, vẫn cần thực hiện phân luồng nhưng theo hướng linh hoạt, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu cụ thể của từng địa phương. Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần hướng dẫn khung phân luồng mang tính định hướng, còn địa phương được quyền điều chỉnh tỷ lệ phù hợp với năng lực cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và định hướng phát triển nguồn nhân lực địa phương.
Bùi Hiển
Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh