Trường THPT Sơn Mỹ đã không ngừng lớn mạnh theo thời gian. Ngôi trường gạch non, mái ngói đơn sơ năm nào đã trở thành biểu tượng, ký ức khó phai của biết bao thế hệ học trò. Với chúng tôi, đó không chỉ là mái trường để học tập, mà còn là một phần máu thịt của tuổi thơ, của những năm tháng dãi dầu và ươm mầm ước mơ.
Ký ức tuổi thơ
Tuổi thơ của tôi và bạn bè cùng thế hệ gắn liền với hình ảnh những dãy nhà cấp bốn đơn sơ, tường gạch thô còn in vết thời gian, mái ngói cũ mỏng manh trước mưa nắng. Sân trường chỉ là bãi đất trống, mùa mưa lầy lội, mùa nắng bụi mù mịt, nhưng lại là nơi lưu giữ biết bao kỷ niệm tuổi học trò. Những cây bàng, cây phượng già ven sân vẫn tỏa bóng mát, vòm lá xào xạc mỗi khi gió về như ru lại những ngày tháng đã qua.
Sơn Mỹ thuở ấy còn nghèo, cuộc sống mưu sinh của người dân gắn chặt với đồng ruộng, với biển khơi và những nghề thủ công đơn giản. Đó là miền đất đã gánh chịu bao đau thương của chiến tranh, nhưng sau hòa bình lại kiên cường vươn lên, gồng mình dựng lại cuộc sống từ những mất mát. Cái nghèo, cái khổ của quê hương không làm chúng tôi lùi bước, mà ngược lại càng hun đúc ý chí và nghị lực để học tập, để đổi thay.
Đại tá, Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn, quê xã Tịnh Khê, tỉnh Quảng Ngãi, hiện là Giám đốc Công ty Đóng tàu Hồng Hà (Nhà máy Z173) trực thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (Bộ Quốc phòng).
Những năm tháng học trò của chúng tôi chỉ là những buổi lên lớp. Đằng sau trang vở và bài học là những chiều nhọc nhằn. Mỗi đứa đều phải làm “người lớn” sớm, phải chia đôi thời gian: Một buổi cắp sách đến trường, một buổi lăn lộn mưu sinh. Cuộc sống dạy chúng tôi những bài học không có trong sách giáo khoa. Có đứa phải phụ cha mẹ làm ruộng, bàn tay chai sạn mùi đất; có đứa phải chăn trâu, cắt cỏ, bùn đất bám đầy chân; có đứa theo cha ra biển kéo lưới, da sạm nắng, môi mặn vị gió khơi; cũng có đứa tỉ mẩn ngồi dệt chiếu cói, bàn tay nhỏ bé dệt nên bao ước mơ thầm lặng.
Vất vả là vậy, nhưng chúng tôi luôn tự tin và tràn đầy khát vọng. Chính gian khó đã gắn kết chúng tôi lại với nhau, thành một sợi dây vô hình bền chặt. Giờ ra chơi, sân đất sau trường vang rộn tiếng cười đùa, những trận đá cầu, những cuộc bóng đá trên nền đất bụi mù mịt vẫn ấm áp tình bạn. Tình bạn ấy giản dị và bền chặt như đất quê mình, đã nuôi dưỡng chúng tôi đi qua những ngày khắc nghiệt.
Động lực lớn nhất, thiêng liêng nhất cho chúng tôi chính là tình thương và sự hy sinh lặng lẽ của cha mẹ. Gia đình tôi có bốn anh chị em, tôi là con cả. Việc bốn đứa con cùng được ăn học tử tế là một gánh nặng lớn với cha mẹ, trong cảnh nhà túng thiếu ngày ấy.
Tôi còn nhớ như in hình ảnh bố mẹ nhường cơm, nhường áo cho chúng tôi. Họ chẳng khi nào mua cho mình một chiếc áo mới, nhưng mỗi mùa khai trường lại tìm cách may cho con một bộ quần áo lành lặn. Những chiếc xe đạp cũ sứt sẹo được bố kiên nhẫn vá đi vá lại, chỉ mong bánh xe không hỏng giữa đường đến trường. Từng đồng tiền bố mẹ chắt chiu, từng bữa cơm bớt lại để dành cho việc học của con - những ký ức ấy in đậm trong tôi, thành động lực để phải cố gắng nhiều hơn. Sự hy sinh ấy lớn lao không thể kể xiết.
Chính tình yêu thương ấy hun đúc trong chúng tôi một ý chí sắt đá: Phải học, phải vươn lên để không phụ lòng cha mẹ. Chúng tôi hiểu rằng, con đường học vấn là lối đi duy nhất để thoát nghèo, là cách để gánh đỡ gia đình và đóng góp cho quê hương sau này.
Những bài học khó quên
Tôi luôn nhớ thầy cô và không bao giờ quên được họ. Những vất vả đời thường của học trò không khiến các thầy cô bớt đi yêu thương hay trách nhiệm. Trái lại, các thầy cô ở Sơn Mỹ ngày ấy đã dồn hết tâm huyết, gắng sức thắp sáng ngọn đèn tri thức trong điều kiện thiếu thốn mọi bề. Họ chính là những người chèo đò thầm lặng đưa bao thế hệ học trò sang bờ ước mơ.
Nhắc về những người thầy, người cô ấy, tôi luôn nhớ cô giáo chủ nhiệm Nguyễn Thị Kim Liên - người nghiêm khắc nhưng tận tâm với nghề. Năm lớp 10, cô giáo cho tôi phụ trách làm báo tường của lớp. Hôm ấy, vì mải phụ giúp gia đình, tôi đến trễ, bị cô phê bình trước lớp. Cuối năm, cô đánh giá tôi chỉ đạt hạnh kiểm khá vì “thiếu trách nhiệm với công việc chung của tập thể”.
Khi ấy, tôi buồn và có chút tủi thân. Nhưng về sau, khi bước vào môi trường quân đội, rồi trưởng thành trong công việc, tôi mới hiểu hết ý nghĩa của bài học năm nào. Từ câu chuyện ấy, tôi học được tính kỷ luật, biết sắp xếp công việc khoa học và hiểu rằng, dù khó khăn thế nào, trách nhiệm với tập thể vẫn phải đặt lên trên hết. Đó là một bài học sâu sắc, khắc cốt ghi tâm.
Nhà thơ Thanh Thảo tặng học bổng cho học sinh Trường THPT Sơn Mỹ. Ảnh: PHẠM ANH
Tôi cũng luôn biết ơn thầy Nguyễn Văn Hà - thầy giáo dạy Toán năm lớp 11. Thầy không chỉ dạy chúng tôi những con số khô khan, mà còn rèn cho chúng tôi tư duy logic, sự kiên trì và bền bỉ. Thầy luôn động viên: “Chỉ cần “bền gan”, không có bài toán nào không giải được”. Những lời ấy trở thành hành trang quý báu giúp tôi giải quyết không chỉ những phương trình trên lớp, mà cả những bài toán khó nhọc của cuộc đời.
Ngày chia tay mái trường Sơn Mỹ sau ba năm học THPT, trong lòng chúng tôi ngổn ngang cảm xúc: Buồn vì phải rời xa thầy cô, bè bạn, lưu luyến mái trường thân quen; nhưng cũng tràn đầy háo hức về một chặng đường mới đang đón đợi. Ngày ấy, tôi từng mơ được làm bác sĩ, kỹ sư hay một thầy giáo trở về phục vụ quê hương.
Nhưng cuối cùng, tôi chọn thi vào Học viện Kỹ thuật quân sự - một quyết định đúng đắn và phù hợp. Không chỉ vì niềm đam mê khoa học kỹ thuật, mà còn vì môi trường quân đội giúp tôi bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình: Học phí, chỗ ăn ở, sách vở đều được đảm bảo.
Từ một cậu học sinh quê nghèo, tôi trở thành học viên của ngôi trường quân đội - nơi kỷ luật thép và nếp sống nghiêm ngặt đã rèn giũa tôi nên người. Chính những bài học kỷ luật từ mái trường Sơn Mỹ cộng với môi trường quân đội đã hình thành trong tôi tác phong gọn gàng, lối tư duy khoa học, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Sau này, tôi có cơ hội du học tại Ukraine suốt 10 năm. Xa quê hương, tôi càng thấm thía và thương hơn miền đất Sơn Mỹ còn nhiều khó khăn. Kinh tế, xã hội của quê hương đã khởi sắc nhưng vẫn chậm so với các vùng khác, điều đó thôi thúc tôi và nhiều người con Sơn Mỹ khác không ngừng nỗ lực học tập và cống hiến để góp phần xây dựng quê hương.
Tôi không đặt cho mình những mục tiêu cao xa về chức vị hay danh vọng. Tôi chỉ tự nhủ phải sống, làm việc bằng tất cả sự kiên trì, dám học hỏi và dám hành động. Mọi khó khăn - từ rào cản ngôn ngữ, khác biệt văn hóa khi học tập xa xứ, đến những thử thách trong công việc - tôi đều vượt qua với niềm tin đã được tôi luyện từ những tháng ngày dưới mái trường Sơn Mỹ.
Người con của Sơn Mỹ
Cuộc sống luôn vận động, phát triển. Chúng tôi luôn tự hào mình là học trò của mái Trường THPT Sơn Mỹ, là người con của miền quê đau thương và anh hùng ấy. Tôi hiểu rằng, chính truyền thống kiên cường của quê hương, sự hy sinh của gia đình và sự tận tâm của các thầy cô, đã vun đắp nên trong chúng tôi tinh thần vượt khó, ý chí bền bỉ.
Học sinh Trường THPT Sơn Mỹ trong giờ chào cờ. Ảnh: PHẠM ANH
Tôi vẫn hay về thăm thầy cô, thăm bè bạn vào nhiều dịp trong năm. Vẫn đều đặn đi qua, đều đặn ngắm nhìn mái trường nơi lưu giữ những ký ức thuở học trò đẹp đẽ. Tôi gửi đến các em học sinh hôm nay đang tiếp tục học dưới mái trường Sơn Mỹ: Hãy tự hào về truyền thống. Hãy coi đó là nguồn động viên lớn lao để phấn đấu học tập và rèn luyện, để vững vàng hơn trên con đường phía trước. Dù sau này các em có đi đâu, làm gì, hãy nhớ mình là người con của Sơn Mỹ, mang theo trong tim ngọn lửa của tình yêu quê hương và khát vọng vươn lên.
Và như lời nhà thơ Thanh Thảo trong trường ca “Trẻ con ở Sơn Mỹ”: “Sơn Mỹ ơi! Hãy nắm tay nhau mãi mãi dưới Mặt Trời/ Cùng băng tới như dòng sông gặp biển/ Cùng vàng rực cánh đồng mùa lúa chín/ Bản đồng ca ấm no của mọi người”.
PHẠM VĂN TUẤN