Khi tiếng Đảng hòa cùng tiếng đồng bào (bài 2)

Khi tiếng Đảng hòa cùng tiếng đồng bào (bài 2)
2 giờ trướcBài gốc
Bài 2: Những người truyền lửa song ngữ
Bài 1: Nghị quyết đến bằng tiếng mẹ đẻ
ĐBP - Trên những bản làng vùng cao vẫn có những người lặng thầm giữ vai trò “truyền lửa” bằng song ngữ. Họ là bí thư chi bộ, già làng, trưởng bản - những người am hiểu cả tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ, kiên nhẫn mang nghị quyết của Đảng đến từng nếp nhà. Bằng hai ngôn ngữ, họ gieo niềm tin, khơi dậy tinh thần đoàn kết và "biến" nghị quyết thành hành động thiết thực. Chính họ đã góp phần xóa khoảng cách ngôn ngữ, đưa Đảng gần dân, để dân càng thêm gắn bó với Đảng.
Già làng Hạng Dụng Chúng cùng Bộ đội Biên phòng tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật cho người dân.
“Phiên dịch viên đặc biệt”
Ngôi nhà gỗ đơn sơ của già làng Hạng Dụng Chúng ở bản Hồ Chim 2, xã Na Sang nằm ngay bên Quốc lộ 4H. Dù ngôi nhà nhỏ, nhưng bước vào, ai cũng ngỡ ngàng trước những tấm bằng khen, giấy khen, huân, huy chương được trao tặng từ Trung ương đến địa phương, ghi nhận đóng góp của ông suốt hàng chục năm qua. Vào thăm già làng, chúng tôi lại bồi hổi nhớ hình ảnh già làng Hạng Dụng Chúng cẩn thận xếp hai tập tài liệu phiên dịch từ tiếng phổ thông sang tiếng Mông để đọc trên hệ thống loa truyền thanh vài năm trước. Khi đó ở tuổi gần 80, nhưng tiếng nói của ông Chúng vẫn đều đặn vang lên trên hệ thống loa phát thanh, trở thành điểm tựa tinh thần của bà con vùng biên. Điều đó khiến chúng tôi rất khâm phục trước tinh thần và ý chí tự học hỏi của già làng Hạng Dụng Chúng.
Sinh ra trong gia đình người Mông ở bản Hồ Chim 2, ngày trẻ vốn tiếng Việt của ông Chúng còn hạn chế, đến mức đọc nghị quyết cũng phải tra từng chữ. Ông nhớ lại: “Đảng nói mà dân không hiểu, làm sao dân làm theo được? Nói sao cho dân hiểu, dân nhớ, dân làm - đó là trách nhiệm của tôi”. Từ suy nghĩ ấy, ông miệt mài tự học tiếng Việt, đồng thời dịch từng đoạn nghị quyết sang tiếng Mông. Ban đầu vụng về, phải sửa đi sửa lại, nhưng càng làm, ông càng thành thạo. Ông tâm sự: “Tôi thường dùng chính tiếng Mông để giải thích cho bà con hiểu rõ được làm gì, không được làm gì; tuyệt đối không vi phạm quy chế biên giới, không chăn thả gia súc qua biên và phải cùng nhau giữ gìn cột mốc, đường biên, cùng nhau giữ rừng... Rồi đến các phong trào thi đua, nghị quyết của địa phương cũng vậy”.
Ở tuổi xế chiều, già làng Hạng Dụng Chúng vẫn giữ vai trò là điểm tựa tinh thần của bà con bản Hồ Chim 2. Với uy tín của mình, ông luôn vận động các dòng họ và từng hộ gia đình chấp hành nghiêm túc chủ trương, pháp luật, đặc biệt là những quy định ở khu vực biên giới. Từ lời nói đến việc làm, ông đã trở thành “cầu nối” để nghị quyết thực sự đi vào đời sống.
Ông Trần Hồng Quân, Chủ tịch UBND xã Na Sang cho biết: “Những người có uy tín như già làng Hạng Dụng Chúng chính là “phiên dịch viên đặc biệt” để đưa nghị quyết của Đảng đến với người dân. Ông là người hiểu rõ phong tục tập quán, thông thạo tiếng Mông, nên khi tuyên truyền, phổ biến các quy định của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền địa phương, bà con không còn e ngại, mà thấy nghị quyết gắn với chính cuộc sống mình và thực hiện theo”.
Không chỉ ở Na Sang, trên khắp các bản làng của tỉnh Điện Biên, vẫn có những “phiên dịch viên đặc biệt” thầm lặng đưa nghị quyết của Đảng đến gần người dân. Là già làng, người có uy tín, ông Lò Văn Thi, bản Lói 1 (xã Mường Nhà) vừa am hiểu phong tục, tập quán, vừa có khả năng chuyển tải nghị quyết bằng tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc Thái. Nhờ đó, những văn bản tưởng chừng khô khan đã trở nên gần gũi, dễ nhớ và bà con dễ thực hiện.
Ông Thi chia sẻ: “Dịch nghị quyết không chỉ đơn thuần là chuyển từ tiếng Việt sang tiếng Thái, mà quan trọng hơn là phải dùng từ ngữ giản dị, gắn với đời sống, với phong tục của bà con. Có như vậy thì bà con mới thấm, mới làm theo. Từ đó, nghị quyết không chỉ dừng lại trên giấy tờ mà trở thành động lực hành động, góp phần xây dựng bản làng khang trang, nông thôn mới ngày càng đổi thay”.
“Cầu nối” đưa nghị quyết đến các bản làng
Trên triền đồi thoai thoải của bản Tá Sú Lình (xã Sín Thầu), khu tái định cư mới đang dần hình thành, mang dáng vẻ tươi sáng giữa màu xanh núi rừng. Con đường bê tông nối liền từng nếp nhà, tiếng trẻ con nô đùa hòa cùng tiếng của công trường xây dựng, tiếng cười vui vẻ đã tạo nên bức tranh sống động về một bản làng đang hồi sinh. Để có được thành quả ấy, công tác giải phóng mặt bằng vốn khó khăn và nhạy cảm đã diễn ra thuận lợi nhờ vai trò tiên quyết của anh Chảo Trố Phạ (SN 1995), một người có uy tín trẻ trong cộng đồng dân tộc Hà Nhì.
Bằng sự chân tình và vốn tiếng mẹ đẻ, anh Phạ đến tận nhà để giải thích, thuyết phục. Gia đình chủ đất cũng là người dân tộc Hà Nhì, ban đầu còn lo ngại mất đất sản xuất, thiếu nơi sinh sống, nhưng khi nghe anh Phạ phân tích, liên hệ bằng những câu quen thuộc trong đời sống, bà con đã đồng thuận chỉ trong một buổi chiều.
Không dừng ở đó, anh Phạ còn sáng tạo khi quay clip ngắn, dịch nghị quyết sang tiếng Hà Nhì rồi chia sẻ qua zalo, facebook cho thanh niên trong bản. Chính cách làm mới mẻ ấy giúp nghị quyết đến gần hơn với lớp trẻ, tạo nên sự đồng thuận toàn diện. Từ đó khẳng định khi ngôn ngữ được sử dụng đúng cách, nhất là bởi những người có uy tín trẻ tuổi, nó trở thành “chìa khóa” mở ra niềm tin và sự đồng lòng trong nhân dân.
Trên khắp các bản làng vùng cao Điện Biên, tiếng nói của những già làng, trưởng bản, người có uy tín từ lâu đã trở thành nhịp cầu đưa nghị quyết của Đảng đến gần bà con. Họ không chỉ truyền đạt bằng tiếng phổ thông, mà quan trọng hơn là sử dụng chính tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình để giải thích, liên hệ với đời sống hằng ngày. Nhờ vậy, những văn bản vốn khô khan đã trở nên dễ hiểu, dễ nhớ và quan trọng nhất là đi vào hành động cụ thể.
Với sự tuyên truyền, vận động của anh Chảo Trố Phạ, khu tái định cư cho người dân bản Tá Sú Lình (xã Sín Thầu) đang dần hoàn thiện.
Theo thống kê đến nay, toàn tỉnh có trên 1.250 người có uy tín; trong đó 554 người có uy tín dân tộc Mông, 531 người có uy tín dân tộc Thái, 63 người có uy tín dân tộc Khơ Mú, 24 người có uy tín dân tộc Hà Nhì cùng nhiều dân tộc khác. Đây là lực lượng nòng cốt trong công tác vận động quần chúng, góp phần quan trọng để các nghị quyết, chính sách không chỉ dừng lại ở văn bản, mà trở thành niềm tin và hành động của cộng đồng.
Ông Vũ Văn Công, Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo nhận định: “Người có uy tín là kênh tuyên truyền hiệu quả, bởi họ hiểu phong tục, tiếng nói của đồng bào. Khi họ đứng ra vận động, bà con nghe và làm theo, từ đó nghị quyết được cụ thể hóa trong từng bản làng, góp phần giữ vững an ninh trật tự, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới ở vùng cao biên giới”.
Bài 3: Ngôn ngữ - chìa khóa mở niềm tin
Phạm Quang
Nguồn Điện Biên Phủ : https://baodienbienphu.vn/tin-bai/xay-dung-dang/khi-tieng-dang-hoa-cung-tieng-dong-bao-bai-2