Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Một trong những nhiệm vụ giải pháp được đưa ra về đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo là: "bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính".
Nội dung đang nhận được sự quan tâm của lãnh đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với kỳ vọng sẽ tạo ra những tác động tích cực từ nhận thức cho đến hành động trong thực hiện cơ chế tự chủ.
Kỳ vọng tháo gỡ khó khăn trong thực hiện tự chủ
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sĩ Hồng Thị Thanh Thủy - Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 71 đang tạo ra một bước mở quan trọng khi khẳng định giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao. Cùng với đó, yêu cầu bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính cũng là một nội dung được kỳ vọng sẽ tháo gỡ những khó khăn cho cơ sở giáo dục trong thời gian tới.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, trước đây Thông tư số 15/2021/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định về Điều lệ trường cao đẳng (có hiệu lực ngày 15/12/2021) quy định: “Trường cao đẳng công lập thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tài sản theo quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập”.
Theo cô Thủy, trong quá trình thực hiện cơ chế tự chủ, cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng gặp khó khăn do việc tự chủ tài chính hiện nay thường gắn bó tương đối chặt chẽ với thu từ học phí, kết quả tuyển sinh. Trong khi đó, so với các trường đại học, thì công tác tuyển sinh của trường cao đẳng vẫn chưa đạt được như kỳ vọng.
Nguồn ảnh minh họa: Website Trường Cao đẳng nghề Thành phố Hồ Chí Minh
Và thầy Trần Văn Minh - cán bộ Phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng, Trường Cao đẳng Y tế Bình Định bày tỏ rất tâm đắc với tinh thần chỉ đạo bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính và không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ đối với cơ sở giáo dục, đào tạo công lập.
Theo thầy Minh, một trong những khó khăn hiện nay của cơ sở giáo dục nghề nghiệp chính là thực hiện tự chủ vẫn chỉ gắn với tự chủ tài chính.
Trong các quyền tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp như: tự chủ về hoạt động chuyên môn, tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự, tự chủ về tài chính và tài sản, thì tự chủ về tài chính đã được quy định rõ tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, khi phân loại mức độ tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, các quyền tự chủ khác của cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến các quyền tự chủ khác của nhà trường chưa được phát huy.
Thực hiện cơ chế tự chủ, Trường Cao đẳng Y tế Bình Định hiện chỉ được hỗ trợ một phần ngân sách chi thường xuyên. Toàn bộ nguồn thu của nhà trường nộp vào ngân sách chung. Khi nhà trường muốn chi cho các hoạt động như sửa chữa, đầu tư trang thiết bị thì đều phải tiến hành xin ý kiến, nếu mức chi vượt quá quy định thì càng phải chờ phê duyệt. Ngoài ra, ngay cả việc thu học phí hiện nay vẫn phải phụ thuộc vào định mức kinh tế kỹ thuật theo quy định.
Cùng chia sẻ, phó hiệu trưởng của một trường cao đẳng ở Bắc Ninh cho rằng, điểm nghẽn lớn trong quá trình triển khai cơ chế tự chủ ở cơ sở giáo dục nghề nghiệp là tự chủ gắn với tự chủ tài chính.
“Với một cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, hiện có hai nguồn thu chủ yếu, đó là từ học phí và từ các dịch vụ mà nhà trường cung cấp. Nhưng không phải cơ sở giáo dục nghề nghiệp nào cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ, bởi vị trí, quy mô, cơ sở vật chất mỗi đơn vị lại khác nhau, và không ít trường gần như chỉ trông vào học phí để cân đối ngân sách”, vị này chia sẻ.
Chưa kể, mức thu học phí đã được quy định theo tín chỉ, nhà trường không thể tự ý điều chỉnh, mà chỉ có thể dựa vào quy mô tuyển sinh để tăng thêm nguồn thu. Điều này dẫn đến tình trạng trường nào khó khăn trong tuyển sinh thì khó có thu từ nguồn khác để bù đắp. Tự chủ tài chính vì thế trở thành gánh nặng hơn là động lực, khiến cơ sở giáo dục nghề nghiệp loay hoay trong bài toán chi thường xuyên, sửa chữa cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị.
Chính từ những bất cập kể trên nên việc Nghị quyết 71 đề cập đến nhiệm vụ giải pháp bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính càng mang ý nghĩa quan trọng. Từ đó, giúp tháo gỡ những vướng mắc lâu nay khi thực hiện cơ chế tự chủ, đồng thời mở ra hướng tiếp cận đúng, coi tự chủ là quyền toàn diện của cơ sở giáo dục, từ tổ chức bộ máy, nhân sự, chuyên môn cho đến tài chính.
“Khi tự chủ tài chính không còn là "thước đo" duy nhất, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ có thêm động lực đổi mới, tập trung vào nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao” vị phó hiệu trưởng nhà trường chia sẻ.
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần được thực hiện đầy đủ các quyền tự chủ
Từ kinh nghiệm thực tiễn, thầy Minh chia sẻ thêm, ở nhiều nước trên thế giới, quyền tự chủ được hiểu đầy đủ với các trụ cột như tự chủ về tổ chức bộ máy, tự chủ về chuyên môn, tự chủ tài chính nhưng hiện nay chúng ta thường gắn tự chủ với tự chủ tài chính - “như vậy là chưa đủ”, thầy Minh nói.
Ngoài tự chủ tài chính, thầy Minh cho rằng cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần được thực hiện quyền tự quyết về nhân sự, từ việc bổ nhiệm, cho đến sắp xếp tinh giản đội ngũ khi cần thiết. “Hiện nay, khi muốn cắt giảm hay bổ nhiệm, nhà trường cũng không được toàn quyền quyết định”, thầy Minh chia sẻ.
Chính vì thế, nếu thúc đẩy được quyền tự chủ toàn diện, đặc biệt là quyền tự chủ về nhân sự, tổ chức, theo thầy Minh, nhà trường sẽ chủ động hơn trong quản trị, bố trí nguồn lực, đảm bảo chi trả lương và ổn định đội ngũ. Bên cạnh đó, việc đánh giá mức độ tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng nên được dựa vào việc chương trình đào tạo của nhà trường được kiểm định, đánh giá ngoài, và đặc biệt là chất lượng đầu ra phải được doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động công nhận.
Còn theo cô Thủy, đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp vừa chuyển về Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, cần thiết phải có sự điều chỉnh chính sách để bảo đảm tính đồng bộ và sát thực tiễn trong quá trình thực hiện tự chủ.
Cùng đưa ra quan điểm, vị phó hiệu trưởng một trường ở Bắc Ninh cho rằng, khi mức độ tự chủ càng cao thì tinh thần làm việc của các bộ phận trong nhà trường cũng tích cực hơn, mọi người cùng nỗ lực theo tinh thần trách nhiệm chung. Nhưng để đánh giá mức độ tự chủ thì không thể chỉ nhìn vào một vài khía cạnh. Chúng ta cần phải có các chỉ số cụ thể, chẳng hạn như KPI, để phản ánh đúng thực chất về năng lực tự chủ của cơ sở.
Việc đánh giá mức độ tự chủ của cơ sở giáo dục nên dựa vào nhiều tiêu chí, từ diện tích, cơ sở vật chất, cơ cấu giảng viên cơ hữu, số lượng sinh viên chính quy cho đến khả năng liên kết đào tạo. Còn nếu chỉ bó hẹp ở việc đánh giá mức độ tự chủ tài chính thì không ít trường sẽ bị “đánh giá lệch” trong khi những nỗ lực đổi mới về quản trị, học thuật và chất lượng đào tạo chưa được ghi nhận một cách đúng mức.
Mai Anh