'Khoảng trống' đầu tư và ứng dụng R&D trong nông nghiệp

'Khoảng trống' đầu tư và ứng dụng R&D trong nông nghiệp
7 giờ trướcBài gốc
Khoảng cách đầu tiên và lớn nhất nằm ở chính sách đầu tư. Theo số liệu từ Bộ Khoa học và Công nghệ, mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện chỉ chiếm khoảng 0,6-0,8% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Nhiều 'rào cản' khiến R&D chưa phát triển
Con số này trở nên khiêm tốn một cách đáng ngạc nhiên khi so sánh với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Thái Lan đã đầu tư cho lĩnh vực này là 1%, Trung Quốc là 2%, còn Hàn Quốc là 4%.
Rõ ràng, sự thiếu hụt về nguồn lực tài chính đã trở thành một rào cản lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, chất lượng và tốc độ của các công trình nghiên cứu. Các viện, trường, trung tâm nghiên cứu thiếu kinh phí để đầu tư trang thiết bị hiện đại, thu hút nhân tài và thực hiện các đề tài có tính đột phá. Điều này dẫn đến một vòng luẩn quẩn: nghiên cứu chậm, kết quả không thực sự ấn tượng, và việc ứng dụng vào thực tiễn càng trở nên khó khăn.
Tuy nhiên, trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp không phải là không có những điểm sáng. Câu chuyện của HTX Hoa Mười ở Sơn La là một ví dụ điển hình cho thấy sức mạnh của R&D khi được ứng dụng đúng cách.
Nhờ liên kết với Viện Nghiên cứu Rau quả, HTX này đã mạnh dạn đưa vào trồng giống nhãn Ánh vàng 205 – một giống nhãn mới được tuyển chọn từ nguồn gen nhập nội với nhiều ưu điểm vượt trội như vị ngọt thanh, cùi ráo nước, vỏ cứng rất thuận lợi cho xuất khẩu. Năng suất trung bình của giống nhãn này đạt 10 tấn/ha, mang lại lợi nhuận khoảng 100-150 triệu đồng/ha. Sau 5-7 năm, năng suất có thể tăng lên 18-20 tấn/ha, lợi nhuận đạt 200-300 triệu đồng/ha. Đây là một con số ấn tượng, minh chứng cho hiệu quả kinh tế rõ rệt khi nông dân, HTX được tiếp cận với khoa học công nghệ một cách đúng đắn và hiệu quả.
Giống nhãn Ánh vàng 205 đang được trồng ở một số HTX ở Sơn La.
Thế nhưng, mô hình như của HTX Hoa Mười chưa thể nhân rộng một cách nhanh chóng và dễ dàng. Theo PGS. TS Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả, nếu doanh nghiệp nhanh nhạy và có kinh phí đầu tư ngay cho R&D thì đối với nông dân và HTX lại gặp phải những trở ngại nhất định.
Thách thức lớn nhất đến từ hạ tầng công nghệ thông tin và năng lực tiếp cận. Cơ sở hạ tầng cho chuyển đổi số ở các HTX vùng nông thôn còn chưa được đầu tư đầy đủ. Nhiều nông dân, thành viên HTX ở vùng sâu, vùng xa thậm chí còn chưa biết sử dụng điện thoại thông minh. Đi liền với đó là việc thu thập dữ liệu về HTX còn khó khăn. Khi không có dữ liệu về HTX, các viện nghiên cứu cũng không có nền tảng để chuyển giao khoa học công nghệ một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, các rào cản về cơ chế, chính sách cũng tạo nên "độ trễ" trong quá trình đưa nghiên cứu vào thực tiễn. Ngay cả khi Nghị quyết 57 -NQ/TW đã được ban hành và triển khai nhưng trong thực tế vẫn có độ trễ nhất định.
Đi liền với đó, các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, chẳng hạn như việc xin phép khảo nghiệm giống cây trồng mới, có thể kéo dài hàng năm trời, làm mất đi tính thời sự và hiệu quả của các nghiên cứu và khiến người dân, HTX phải chờ đợi, từ đó kéo giảm sự hiệu quả trong phát triển sản xuất nông nghiệp.
Cần thay đổi tư duy
Để giải quyết những thách thức, cần có các mô hình R&D linh hoạt, phù hợp với đặc thù của nền nông nghiệp Việt Nam, giúp người dân và HTX chủ động hơn trong việc tiếp cận và ứng dụng khoa học.
Theo các chuyên gia, hợp tác công - tư là mô hình hiệu quả để HTX và nông dân tiếp cận R&D một cách bài bản. Thay vì tự mình nghiên cứu, các HTX có thể hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học hoặc các doanh nghiệp tư nhân chuyên về nông nghiệp. Ví dụ như một HTX chuyên sản xuất cây ăn quả đặc sản có thể hợp tác với Viện Nghiên cứu Nông nghiệp để thử nghiệm giống mới, hoặc với một công ty công nghệ để phát triển hệ thống tưới tiêu thông minh. Viện, trường cung cấp kiến thức, chuyên gia và công nghệ; HTX cung cấp đất đai, nhân lực và kinh nghiệm thực tiễn. Mô hình này không chỉ giúp giảm chi phí R&D cho cả hai bên mà còn đảm bảo sản phẩm nghiên cứu có tính ứng dụng cao.
Tiêu biểu như HTX Đan Hoài (Hà Nội) đã đầu tư vào R&D một cách phù hợp. Thay vì tự làm, HTX đã liên kết với Viện Nghiên cứu Rau quả, Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Nghiên cứu miền núi phía Bắc để ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất hoa lan hồ điệp. Đặc biệt, HTX đã liên kết hợp tác với Tập đoàn Flora quốc tế từng bước ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, từng bước nghiên cứu ứng dụng công nghệ nhà lưới, nhà kính, tưới tiêu tự động, điều chỉnh ngoại cảnh... vào sản xuất hoa lan.
Kết quả là đến nay, HTX Đan Hoài đã có cơ sở vật chất hiện đại với 10.000m2 nhà lưới công nghệ cao để sản xuất hoa cao cấp, 1 phòng nuôi cấy mô hiện đại và đội ngũ kỹ thuật tay nghề cao, cùng với đó là các chuyên gia của Việt Nam và nước ngoài. HTX cũng luôn đi đầu trong ứng dụng sản phẩm hoa lan hồ điệp chất lượng cao đến tay người tiêu dùng cả nước.
Ngoài ra, trong nội bộ HTX cũng có thể diễn ra quá trình R&D. Ngay cả các HTX có quy mô nhỏ cũng có thể bắt đầu công việc R&D của mình. R&D không phải lúc nào cũng cần phòng thí nghiệm tối tân. Một HTX có thể dành một phần nhỏ diện tích đất để làm "vườn thực nghiệm", thử nghiệm các phương pháp canh tác mới, giống cây trồng mới, hoặc các loại phân bón hữu cơ. Các thành viên HTX có thể cùng nhau ghi chép, so sánh, đánh giá hiệu quả của từng phương pháp. Từ đó, HTX rút ra bài học kinh nghiệm và áp dụng cho toàn bộ diện tích sản xuất. Phương pháp này giúp người dân, thành viên HTX chủ động hơn, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn bên ngoài và tạo ra sự gắn kết, học hỏi lẫn nhau trong HTX.
TS Lê Hoàng Kiệt, Giám đốc sản phẩm mới và dịch vụ nông nghiệp Công ty Cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau, cho rằng nếu như ngày trước, doanh nghiệp thường thực hiện nghiên cứu và phát triển trên sản phẩm thì nay vấn đề R&D đã thực hiện ngược lại: đặt ra mong muốn về giá trị sản phẩm cuối cùng, rồi từ đó mới thực hiện đầu tư nghiên cứu bằng phương pháp phù hợp.
Theo TS Lê Hoàng Kiệt, tư duy này đòi hỏi quá trình nghiên cứu và phát triển phải đi sâu vào chuỗi giá trị thay vì chỉ dừng lại ở một sản phẩm đơn lẻ. Điều này không chỉ thúc đẩy việc thay đổi tư duy trong nghiên cứu mà còn tác động trực tiếp đến cách thức sản xuất và kinh doanh. Nông dân, HTX không chỉ trồng ra sản phẩm mà phải hiểu được giá trị của sản phẩm đó trên thị trường, từ đó áp dụng các công nghệ, quy trình phù hợp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Như vậy, nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Việt Nam có tiềm năng to lớn để bứt phá. Tuy nhiên, để những tiềm năng ấy trở thành hiện thực, cần có một sự thay đổi toàn diện. Đó không chỉ là câu chuyện của nguồn vốn đầu tư, mà còn là sự đồng bộ hóa về chính sách, hạ tầng và quan trọng nhất là sự thay đổi về tư duy. Cần có một sự kết nối chặt chẽ hơn giữa Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân để những thành tựu R&D thực sự đến được với người cần nó nhất, giúp họ nâng cao giá trị trên từng hạt lúa, trái cây, để nông nghiệp Việt Nam có thể cất cánh và bay xa.
Huyền Trang
Nguồn Vnbusiness : https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/khoang-trong-dau-tu-va-ung-dung-r-d-trong-nong-nghiep-1109521.html