Không mơ hồ giữa tự do dân chủ hợp pháp với lợi dụng tự do dân chủ để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ

Không mơ hồ giữa tự do dân chủ hợp pháp với lợi dụng tự do dân chủ để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ
6 giờ trướcBài gốc
Thời gian qua, lợi dụng các vụ án liên quan đến đối tượng có hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025), những phần tử cơ hội chính trị, phản động và một số tổ chức thiếu thiện chí trong và ngoài nước đã quy chụp, xuyên tạc vấn đề quyền con người ở Việt Nam. Họ cho rằng quy định đó là công cụ để “đàn áp tiếng nói phản biện”, “bóp nghẹt tự do ngôn luận”.
Các luận điệu này được ngụy trang dưới chiêu bài “bảo vệ quyền con người”, “bảo vệ tự do ngôn luận” nhằm phủ nhận tính chính danh, tính hợp hiến, hợp pháp và sự cần thiết của quy định pháp luật quan trọng nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và thể chế chính trị. Những thủ đoạn, chiêu trò “đánh lận con đen” này vẫn thường được các đối tượng sử dụng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, gây bất lợi cho Việt Nam trong đối ngoại.
Ảnh minh họa: vov.vn
Bản chất pháp lý ưu việt của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế
Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã hiến định: “Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1, Điều 14).
Khoản 2, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 cũng hiến định, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Quy định này một mặt nhằm tránh các cơ quan nhà nước xâm phạm quyền con người, quyền công dân; mặt khác cũng hạn chế khả năng lợi dụng vấn đề quyền con người, quyền công dân để thực hiện các hành vi ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, trong đó mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15). Quy định này hoàn toàn phù hợp với pháp luật nhân quyền quốc tế, như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Việt Nam là thành viên từ năm 1982) quy định việc thực hiện quyền tự do ngôn luận phải “kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt” và “có thể bị giới hạn bởi pháp luật” vì các lý do như tôn trọng quyền hoặc uy tín của người khác, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội.
Chính vì thế, Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025) quy định về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” là hoàn toàn phù hợp với pháp luật nhân quyền quốc tế và hợp hiến, hợp pháp ở Việt Nam.
Tội danh này quy định người phạm tội cố ý thực hiện các hành vi thể hiện dưới các phương thức, thủ đoạn lợi dụng các quyền tự do dân chủ như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền khác với mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, như: Viết, biên tập, đăng tải các bài đả kích, lăng mạ, bôi nhọ, nói xấu, xúc phạm danh dự, nhân phẩm cá nhân các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trên internet và các phương tiện truyền thông khác làm ảnh hưởng, thiệt hại đến uy tín của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, thanh danh của Đảng, Nhà nước, gây mất trật tự công cộng, tạo tâm lý hoang mang, lo lắng, bất an trong xã hội.
Các chế tài đối với người phạm tội này (bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm) là các biện pháp cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi nguy hiểm này đối với xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể và lợi ích quốc gia-dân tộc.
Thực tế pháp luật hầu hết các quốc gia dân chủ đều có quy định hình sự tương tự để xử lý các hành vi lạm dụng tự do ngôn luận gây hại nghiêm trọng, như: Tội phỉ báng, vu khống (Anh, Mỹ, Australia...); tội kích động thù hận (nhiều nước châu Âu); tội tán phát thông tin sai lệch gây hoang mang dân chúng (Pháp, Đức...); tội xúc phạm quốc kỳ, quốc huy (Mỹ, Ấn Độ...). Do vậy, Nhà nước quy định “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” trong pháp luật hình sự hiện hành là phù hợp thông lệ pháp luật thế giới và thực tiễn đất nước.
Việc quy định “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” trong pháp luật hình sự hiện hành ở Việt Nam nhằm: 1) Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bao gồm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội... Những lợi ích này là nền tảng cho sự tồn vong và phát triển của quốc gia, dân tộc; 2) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, gồm uy tín, danh dự, nhân phẩm, bí mật kinh doanh, tài sản... của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; 3) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, gồm danh dự, nhân phẩm, uy tín, đời tư, bí mật cá nhân, gia đình, tài sản... của mỗi công dân; 4) Bảo vệ môi trường thông tin lành mạnh, gồm chống lại sự lan truyền thông tin giả mạo, độc hại, gây hoang mang, chia rẽ xã hội, phá hoại niềm tin.
Như vậy, việc quy định tội danh này không nhằm hạn chế tự do phát biểu chính kiến hay phản biện xã hội, mà nhằm ngăn chặn sự lạm dụng, sử dụng các quyền tự do đó như một công cụ để gây hại một cách có chủ đích và nghiêm trọng đến các giá trị được pháp luật bảo vệ.
Thực tế, không phải mọi phát biểu trái chiều của cá nhân đều bị coi là phạm tội. Những hành vi này chỉ cấu thành tội phạm khi nó thực sự xâm phạm đến một trong các đối tượng được pháp luật hình sự bảo vệ (lợi ích Nhà nước, quyền lợi tổ chức, cá nhân) do người có đủ năng lực pháp luật hình sự thực hiện.
Vạch trần các luận điệu xuyên tạc Điều 331 của Bộ luật Hình sự hiện hành
Thứ nhất, luận điệu cho rằng “Điều 331 dùng để đàn áp tiếng nói phản biện, chỉ trích chính quyền” là sự suy diễn ác ý và sai lầm của thế lực thù địch.
Phản biện xã hội đúng quy định pháp luật, vì lợi ích chung, lành mạnh, xây dựng, dựa trên sự thật và động cơ trong sáng luôn được khuyến khích và bảo vệ tại Việt Nam. Hàng nghìn ý kiến phản biện trên báo chí, diễn đàn Quốc hội, hội thảo khoa học, qua các kênh tiếp công dân... là minh chứng rõ ràng cho điều này. Vừa qua, kết quả góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 2013 cho thấy sự tham gia tích cực của người dân với hơn 280 triệu lượt ý kiến góp ý từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân trên cả nước, trong đó có gần 36,6 triệu ý kiến từ cá nhân, và tỷ lệ tán thành đạt 99,75% cho thấy sự đồng thuận cao của xã hội đối với dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Thực tiễn đó cho thấy, Việt Nam không hạn chế quyền tự do ngôn luận, báo chí, quyền tiếp cận thông tin, quyền trưng cầu ý dân, phản biện xã hội. Ngược lại, việc thực hiện các quyền này đúng quy định pháp luật, vì lợi ích chung luôn được tôn trọng, bảo đảm và khuyến khích thực hiện đầy đủ trong thực tế. Điều 331 của Bộ luật Hình sự hiện hành chỉ áp dụng đối với hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xuyên tạc, phỉ báng, tuyên truyền chống phá Đảng, chống phá Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, luận điệu cho rằng “Điều 331 được sử dụng để bịt miệng blogger, nhà báo độc lập” là sự đánh tráo khái niệm và ngụy biện của thế lực thù địch.
Nhà báo, blogger hoạt động hợp pháp, tuân thủ pháp luật, đạo đức nghề nghiệp, cung cấp thông tin chính xác, chính thống, có trách nhiệm luôn được tôn trọng. Hệ thống báo chí chính thống và nhiều blogger tuân thủ pháp luật vẫn hoạt động bình thường ở Việt Nam.
Việc một số cá nhân tự nhận là “nhà báo”, “blogger” nhưng lợi dụng danh nghĩa này để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật (như cố ý đăng tin sai sự thật, xuyên tạc, bôi nhọ cá nhân, tổ chức, tán phát thông tin chống phá Nhà nước) thì có thể bị xử lý theo Điều 331 hoặc các điều luật khác (như "Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông"-Điều 288 của Bộ luật Hình sự).
Việc xử lý họ là vì hành vi phạm tội, không phải vì danh nghĩa hay nghề nghiệp của họ. Luật Báo chí năm 2016 phân biệt rõ nhà báo hoạt động trong cơ quan báo chí được cấp phép với người hoạt động thông tin trên mạng (không phải là nhà báo theo luật định). Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, nhưng đều phải tuân thủ pháp luật.
Thứ ba, luận điệu cho rằng “Việt Nam vi phạm cam kết quốc tế về tự do ngôn luận khi có Điều 331” là sự vu khống của thế lực thù địch.
Điều 331 của Bộ luật Hình sự hiện hành phù hợp với giới hạn quyền được quy định tại Điều 19 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Quy định này cho phép các quốc gia áp dụng các biện pháp giới hạn quyền nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội, quyền hoặc uy tín của người khác. Việc thực thi Điều 331 chính là để bảo vệ các giá trị đó. Các báo cáo quốc gia định kỳ của Việt Nam về thực hiện Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều giải trình rõ quan điểm và thực tiễn này.
Tựu trung lại, Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025) không phải là “cái gậy” để đàn áp tự do ngôn luận như những gì thế lực thù địch bịa đặt, mà là “tấm khiên” cần thiết để bảo vệ quyền tự do dân chủ được thực thi một cách thực chất, có trật tự và an toàn. Quy định đó nhằm bảo vệ xã hội khỏi những hành vi lạm dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích chung, quyền lợi chính đáng của người khác. Quyền tự do dân chủ đích thực luôn đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ tôn trọng pháp luật. Mọi sự xuyên tạc, lợi dụng các quyền tự do dân chủ để thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối đều không xứng đáng được hưởng các quyền tự do dân chủ một cách hợp pháp, chính đáng.
Nguồn QĐND : https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/khong-mo-ho-giua-tu-do-dan-chu-hop-phap-voi-loi-dung-tu-do-dan-chu-de-chong-pha-dang-nha-nuoc-va-che-do-1019098