Không mở rộng tín dụng bằng mọi giá

Không mở rộng tín dụng bằng mọi giá
5 giờ trướcBài gốc
Quang cảnh Diễn đàn “Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô”. Ảnh Ngô Sơn
Kỳ vọng kinh tế Việt Nam tăng tốc
Phân tích tại diễn đàn cho thấy, giai đoạn 2026-2030 được kỳ vọng là giai đoạn tăng tốc của kinh tế Việt Nam, với mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 9-10% mỗi năm. Đây là mức tăng trưởng rất cao, đòi hỏi nguồn lực tài chính tương ứng. Theo TS Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, để đạt được kịch bản tăng trưởng khoảng 10%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2026-2030 ước tính cần tương đương khoảng 39% GDP, tương ứng xấp xỉ 260 tỷ USD. Quy mô vốn này đặt ra sức ép rất lớn lên hệ thống tài chính, đặc biệt là khu vực ngân hàng.
TS Cấn Văn Lực chỉ ra rằng, trong nhiều năm qua, nền kinh tế Việt Nam vẫn dựa quá nhiều vào tín dụng ngân hàng. Tín dụng hiện chiếm hơn 50% tổng các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, trong khi thị trường chứng khoán, trái phiếu DN và các kênh huy động khác phát triển chậm, quy mô còn nhỏ. Sự mất cân đối này khiến mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của nền kinh tế ngày càng cao.
Theo tính toán của vị chuyên gia này, đến cuối năm 2025, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam ước đạt khoảng 147%. Nếu tín dụng tiếp tục tăng ở mức 16-17% mỗi năm trong giai đoạn tới, đến năm 2030, tỷ lệ tín dụng/GDP có thể lên tới 180-185%, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có đòn bẩy tài chính cao nhất thế giới. TS Cấn Văn Lực so sánh, tại Mỹ, tỷ lệ tín dụng/GDP tổng thể vào khoảng 198%, nhưng phần lớn đến từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng; riêng tín dụng của khối ngân hàng thương mại chỉ chiếm khoảng 80% GDP. Điều này cho thấy sự khác biệt rất lớn về cấu trúc hệ thống tài chính. Một điểm đáng chú ý khác được TS Cấn Văn Lực phân tích là hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế Việt Nam còn thấp. Vòng quay tiền chỉ đạt khoảng 0,6-0,7 lần, cho thấy một lượng vốn lớn đang bị “đọng” trong hệ thống, chưa được luân chuyển mạnh vào sản xuất - kinh doanh. Đây là lý do lạm phát chưa bùng phát mạnh, nhưng đồng thời cũng là dấu hiệu cảnh báo về hiệu quả phân bổ nguồn lực.
Thúc đẩy thị trường tín dụng ổn định, hiệu quả, bền vững
Từ góc nhìn dài hạn, các chuyên gia tại diễn đàn thống nhất quan điểm rằng tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn tới không thể tiếp tục chạy theo quy mô. TS Cấn Văn Lực nhấn mạnh, Việt Nam không thể mãi đi theo mô hình tăng trưởng dựa trên việc huy động khối lượng vốn lớn như một số nền kinh tế Đông Á trong giai đoạn trước. Thay vào đó, trọng tâm phải chuyển sang nâng cao hiệu quả của đồng vốn, tối ưu hóa phân bổ nguồn lực và cải thiện năng suất.
Cùng chung quan điểm, TS Lê Xuân Sang – Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới cho rằng, hiệu suất tín dụng/GDP của Việt Nam đã suy giảm đáng kể trong suốt khoảng 40 năm qua. Theo ông, nguyên nhân cốt lõi nằm ở hiện tượng rò rỉ tín dụng sang các kênh phi sản xuất, khiến hiệu quả sử dụng vốn giảm sút và rủi ro hệ thống gia tăng. Trong bối cảnh tín dụng tăng nhanh nhưng không đi kèm cải thiện tương xứng về năng suất, nền kinh tế dễ rơi vào vòng xoáy “nhiều vốn - ít hiệu quả”. Điều này không chỉ tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng mà còn làm suy yếu nền tảng tăng trưởng dài hạn. Một vấn đề khác được các chuyên gia cảnh báo là áp lực thanh khoản của hệ thống ngân hàng. TS Cấn Văn Lực cho biết, hiện nay, huy động vốn đang bị “hụt” khoảng 2 triệu tỷ đồng so với tín dụng. Thực trạng này cho thấy hệ thống ngân hàng đang phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho các khoản vay trung và dài hạn, làm gia tăng rủi ro và hạn chế dư địa mở rộng tín dụng trong tương lai.
Trước những thách thức nêu trên, các chuyên gia cho rằng giải pháp không chỉ dừng lại ở việc đa dạng hóa kênh huy động vốn, mà quan trọng hơn là đổi mới mô hình phát triển và cấu trúc tài chính của nền kinh tế. Theo TS Cấn Văn Lực, cần nhanh chóng phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu DN và cổ phiếu, để dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc khai thông các kênh dẫn vốn mới như tài chính xanh, tài chính bền vững, nâng hạng thị trường chứng khoán, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế và phát triển thị trường tài sản số sẽ giúp giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng.
TS Lê Xuân Sang bổ sung, trong 5–10 năm tới, Việt Nam cần tập trung đa dạng hóa nguồn vốn thông qua thị trường chứng khoán, đồng thời phát triển các tổ chức xếp hạng tín nhiệm để nâng cao tính minh bạch và kỷ luật thị trường. Ông cho rằng dòng vốn nên được định hướng vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh cao và khả năng nâng cao năng suất như năng lượng tái tạo, thương mại điện tử và hệ sinh thái ươm tạo công nghệ – những lĩnh vực ít tạo áp lực lạm phát nhưng có sức lan tỏa lớn. Nhìn tổng thể, các ý kiến chuyên gia cho rằng, tín dụng vẫn là động lực quan trọng của tăng trưởng nhưng không thể tiếp tục mở rộng theo chiều rộng. Khi tín dụng được đặt đúng vai trò trong một cấu trúc tài chính cân bằng hơn, với thị trường vốn và đổi mới sáng tạo làm trụ cột, nền kinh tế Việt Nam mới có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng cao đi kèm với ổn định vĩ mô và phát triển bền vững.
Ngô Sơn
Nguồn PL&XH : https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/khong-mo-rong-tin-dung-bang-moi-gia-440387.html