Ngày 20/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi). Trước những băn khoăn về việc triển khai sáp nhập các trường đại học cũng như cơ chế hoạt động của đại học vùng hiện nay, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, nếu mô hình hiện nay còn tồn tại tầng nấc trung gian cồng kềnh, cần được điều chỉnh thận trọng, đồng thời tránh tạo thêm đầu mối hoặc phân tán hệ thống, bảo đảm tinh gọn theo tinh thần Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn phát biểu tại phiên thảo luận.
Tăng quyền tự chủ, phát triển bền vững cho đại học vùng
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho rằng việc đánh giá mô hình đại học vùng cần được tiếp cận một cách cẩn trọng và toàn diện, vì đây là một thiết chế có vai trò chiến lược trong hệ thống giáo dục đại học. Theo ông, đại học vùng từ trước tới nay được xây dựng nhằm tập hợp nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng thể của các trường thành viên, đóng vai trò đầu tàu trong đào tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học.
Việc xóa bỏ hay sáp nhập đại học vùng không thể thực hiện theo cách cơ học, bởi nếu làm như vậy sẽ dễ dẫn đến phân tán nguồn lực, giảm hiệu quả quản trị và ảnh hưởng tới quyền tự chủ của các trường thành viên. Bộ trưởng nhấn mạnh rằng các nghị quyết của Đảng, từ Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đến các nghị quyết về phát triển vùng, đều xác định đại học vùng là những thực thể mạnh, cần được phát triển bền vững.
Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận mô hình hiện nay còn tồn tại khâu trung gian cồng kềnh, gây độ trễ trong quản lý và hạn chế khả năng phản ứng nhanh của các trường thành viên, đặc biệt trong các quyết định về đầu tư, mở ngành, hợp tác quốc tế. Đây là lý do cần đánh giá, điều chỉnh để phát huy vai trò của đại học vùng mà không tạo thêm đầu mối hay tầng nấc quản lý mới.
Theo Bộ trưởng, tinh thần Nghị quyết 71 về tinh gọn bộ máy là một nguyên tắc then chốt trong việc cải tổ đại học vùng. Ông lập luận rằng mọi thay đổi phải bảo đảm giảm đầu mối, tăng hiệu quả và duy trì sự liên thông, đồng bộ của hệ thống giáo dục đại học. Đồng thời, việc điều chỉnh mô hình không chỉ dựa trên yêu cầu hành chính mà phải xem xét đến tầm nhìn chiến lược, khả năng cạnh tranh quốc tế và năng lực phát triển bền vững của các trường.
Ông nhấn mạnh rằng việc tiếp tục giữ hoặc tái cấu trúc đại học vùng cần dựa trên cơ sở tăng cường quyền tự chủ thực chất cho các trường thành viên, đồng thời phát huy thế mạnh và uy tín của từng đơn vị, tránh những giải pháp hình thức khiến một số trường yếu đi, mất cơ hội phát triển và giảm khả năng cạnh tranh.
Theo ông, mục tiêu cuối cùng là xây dựng một hệ thống đại học vùng vừa mạnh, vừa tinh gọn, đảm bảo phát triển thực chất và đóng vai trò đầu tàu trong giáo dục đại học Việt Nam.
Sáp nhập đại học không thể cơ học
Trước đó, Đại biểu Nguyễn Quang Huân (Đoàn Đại biểu TP Hồ Chí Minh) bày tỏ lo ngại rằng quan niệm “cơ sở giáo dục đại học” trong dự thảo luật – bao gồm trường đại học, đại học vùng, đại học quốc gia và đại học đa lĩnh vực – chưa phản ánh đúng thực tế tổ chức. Trong các đại học vùng hay đại học quốc gia đang có nhiều trường thành viên, đơn vị đào tạo trực tiếp tạo ra sản phẩm giáo dục. Nếu gọi các đại học này là “cơ sở”, theo ông, sẽ vô tình làm mờ đi vai trò của các trường thành viên – nơi cần được tăng cường quyền tự chủ và đầu tư trực tiếp.
Đại biểu Nguyễn Quang Huân (Đoàn Đại biểu TP. HCM).
Đại biểu Huân ví dụ: “Nếu muốn đưa trường đại học của Việt Nam vào nhóm 100 trường hàng đầu thế giới bằng cách sáp nhập cơ học thì điều đó chưa chắc tạo ra sức mạnh. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chỉ mạnh lên khi phát triển thành một đại học và bên trong có những trường chuyên sâu. Còn khi sáp nhập cơ học, những cơ sở đang phát triển tốt có thể yếu đi do mất quyền tự chủ tài chính, thiếu chủ động trong tuyển sinh và học thuật.”
Ông dẫn thực tế một số trường từng rất mạnh trước khi sáp nhập nhưng sau đó “chậm lại” vì phải tự chủ tài chính trong khi nguồn tuyển suy giảm, buộc phải hạ điểm chuẩn đầu vào và đánh mất lợi thế vốn có. Từ đó, Đại biểu Huân cho rằng việc xác định sai khái niệm “cơ sở giáo dục đại học” có thể khiến chính sách phân bổ nguồn lực đi lệch hướng, gây tác động tiêu cực đến chất lượng hệ thống.
Đại biểu Nguyễn Văn Thi (Đoàn Đại biểu tỉnh Bắc Ninh) phân tích kỹ hơn về những bất cập của mô hình đại học vùng. Theo ông, đại học vùng ra đời từ thập niên 1990 với mục tiêu liên kết nguồn lực, song đến nay lại là mô hình cồng kềnh và thiếu hiệu quả.
Đại biểu Nguyễn Văn Thi (Đoàn Đại biểu tỉnh Bắc Ninh).
Thứ nhất, các đại học vùng không có ngân sách riêng, không có thẩm quyền trong quản lý nhân sự, khoa học công nghệ hay đầu tư. Điều này khiến đại học vùng giống như “một tầng trung gian hành chính” hơn là đầu mối liên kết thực chất.
Thứ hai, các trường thành viên – dù có tư cách pháp nhân độc lập – lại phải thực hiện cơ chế “hai tầng”: mọi thủ tục thành lập ngành học, hợp tác quốc tế, đầu tư cơ sở vật chất đều phải trình qua đại học vùng rồi mới lên Bộ. “Sự chậm trễ này khiến các trường đánh mất nhiều cơ hội, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh và xếp hạng quốc tế,” đại biểu Thi nhấn mạnh.
Thứ ba, về thương hiệu, ông cho rằng “đại học vùng thường mờ nhạt hơn so với trường thành viên”, làm giảm giá trị học hiệu và khả năng thu hút nguồn lực xã hội hóa.
Từ các phân tích trên, đại biểu đề nghị Quốc hội xem xét nghiêm túc việc loại bỏ mô hình đại học vùng, chuyển các trường thành viên về trực thuộc Bộ GD&ĐT hoặc địa phương quản lý, nhằm tinh gọn bộ máy, tăng quyền tự chủ thực chất và tạo động lực mới cho đổi mới giáo dục đại học.
Khiếu Hương