Không thể có Việt Nam hùng cường nếu không có nền giáo dục mạnh

Không thể có Việt Nam hùng cường nếu không có nền giáo dục mạnh
2 giờ trướcBài gốc
Học sinh Trường THPT Nguyễn Quốc Trinh (Hà Nội) trong ngày khai giảng năm học 2025 - 2026. Ảnh: Facebook nhà trường
Báo GD&TĐ có cuộc trao đổi với PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, xung quanh những nội dung đổi mới giáo dục được đề cập trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV.
Lời cam kết với lịch sử, tương lai
- Thưa ông, khi dự thảo Văn kiện Đại hội XIV khẳng định quyết tâm “xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới”, ông nhìn nhận thông điệp đó như thế nào?
- Tôi cho rằng đó không chỉ là một định hướng chính trị mà còn là lời cam kết với lịch sử và với tương lai. Giáo dục Việt Nam đã đi qua một chặng đường đổi mới sâu sắc, nhưng phía trước vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Khi Đảng đặt ra mục tiêu xây dựng nền giáo dục hiện đại, nghĩa là chúng ta cam kết đi bằng trí tuệ, bằng tri thức – vì chỉ có tri thức mới mở đường cho dân tộc sánh vai cùng thế giới.
Viết về giáo dục hôm nay không phải chỉ để nhắc lại khẩu hiệu quen thuộc, mà là để nối dài khát vọng đổi mới bằng suy nghĩ, hành động và trách nhiệm. Mỗi bước tiến trong giáo dục đều gắn liền với vận mệnh quốc gia.
- Ông đánh giá thế nào về những thành quả nổi bật của ngành Giáo dục trong nhiệm kỳ vừa qua?
- Trong những năm qua, chúng ta chứng kiến bước chuyển biến mạnh mẽ của giáo dục Việt Nam trên nhiều lĩnh vực: Chuyển đổi số, đổi mới chương trình phổ thông, nâng cao chất lượng nhân lực, cũng như gia tăng tình cảm xã hội dành cho đội ngũ nhà giáo. Ngân sách đầu tư cho giáo dục không chỉ lớn hơn mà còn được định hướng rõ ràng cho mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Những chính sách như miễn, giảm học phí, hỗ trợ học sinh vùng khó khăn, xây dựng trường nội trú liên cấp ở miền núi… thể hiện triết lý “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Đây là giá trị nhân văn sâu sắc, cho thấy Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là trụ cột phát triển bền vững.
Tôi cũng cho rằng, điểm đáng chú ý nhất là sự chuyển biến trong nhận thức xã hội: Giáo dục không còn được nhìn như một lĩnh vực xã hội đơn thuần, mà là trụ cột chiến lược gắn với khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
- Đổi mới bao giờ cũng là hành trình đầy thách thức. Theo ông, đâu là những vấn đề cần được nhìn thẳng và giải quyết mạnh mẽ hơn?
- Đúng vậy, chúng ta không thể hài lòng với những bước đầu. Thế giới đang vận động nhanh chưa từng có, trí tuệ nhân tạo đang thay đổi cấu trúc kinh tế và việc làm, trong khi Việt Nam đứng trước thời khắc quan trọng: hoặc tận dụng được cơ hội lịch sử để bứt phá, hoặc bị bỏ lại phía sau.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV nhấn mạnh “nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực, ngành, nghề chiến lược”. Đây là mệnh lệnh của thời đại. Chúng ta không thể có nền kinh tế tri thức nếu không có đội ngũ nhân lực tinh hoa, công dân sáng tạo và bản lĩnh toàn cầu.
Câu chuyện hôm nay không còn chỉ là “xây thêm trường, mở thêm lớp”, mà là làm sao để mỗi học sinh đều có cơ hội vươn lên, mỗi giáo viên được truyền cảm hứng cống hiến, mỗi trường đại học trở thành trung tâm tri thức và sáng tạo.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn.
Tư duy giáo dục hiện đại, gắn với xu thế thế giới
- Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đặc biệt nhấn mạnh tư duy giáo dục mở và phát triển toàn diện người học. Ông nhìn nhận thế nào về định hướng này?
- Tôi rất đồng tình. Đó là tư duy giáo dục hiện đại, gắn với xu thế thế giới: chuyển mạnh từ “truyền thụ kiến thức” sang phát triển phẩm chất, năng lực, tư duy phản biện, năng lực số, ngoại ngữ và tinh thần công dân toàn cầu.
Chủ trương đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai, coi năng lực số là tiêu chuẩn cơ bản của công dân tương lai, là tầm nhìn dài hạn. Đây không chỉ là vấn đề giáo dục, mà là cam kết hội nhập quốc tế. Một quốc gia không thể vươn ra thế giới bằng đôi chân trần; chúng ta phải bước ra bằng tri thức, bằng ngoại ngữ và công nghệ.
Đổi mới giáo dục, vì thế, không chỉ nằm trong trường học mà phải đi vào từng gia đình, doanh nghiệp và chính sách xã hội, hình thành một hệ sinh thái học tập suốt đời cho toàn dân.
- Theo ông, cần những giải pháp nào để biến khát vọng đổi mới thành hành động cụ thể trong thời gian tới?
- Chúng ta phải cải cách thể chế giáo dục mạnh mẽ hơn, làm rõ phân cấp - phân quyền và cơ chế trách nhiệm giải trình. Tự chủ đại học phải được coi là động lực tất yếu, song song với kiểm định độc lập, minh bạch chất lượng và công bằng học thuật.
Giáo dục nghề nghiệp cần được đặt đúng vị thế, trở thành nguồn cung cấp nhân lực kỹ thuật xuất sắc cho các ngành công nghiệp chiến lược như công nghệ bán dẫn, năng lượng tái tạo, logistics, trí tuệ nhân tạo, công nghệ quốc phòng.
Một nền giáo dục hiện đại không thể chỉ tạo ra những người “học để thi”, mà phải hình thành những thế hệ học để làm, học để sáng tạo, học để chung sống và học để làm người. Đó là tinh thần xuyên suốt mà văn kiện Đại hội lần này đã thể hiện rõ.
Tôn vinh, trao quyền xứng đáng
- Đội ngũ nhà giáo là yếu tố cốt lõi của mọi cải cách. Dự thảo văn kiện cũng nêu rõ cần có “cơ chế ưu đãi đặc thù, vượt trội” cho nhà giáo và nhà khoa học. Ông đánh giá sao về định hướng này?
- Không thể có nền giáo dục mạnh nếu không có người thầy được tôn vinh và trao quyền xứng đáng. Tôi rất hoan nghênh việc văn kiện lần này đặt trọng tâm vào chính sách nhà giáo - đây là bước đi thể hiện Đảng đã nhìn thẳng vào vấn đề.
Đầu tư cho giáo viên là đầu tư chiến lược. Chúng ta cần tăng cường bồi dưỡng, cải thiện thu nhập, giảm áp lực hành chính, tạo môi trường làm việc nhân văn và tôn trọng sáng tạo. Cùng với đó, việc thu hút chuyên gia quốc tế và trí thức Việt kiều tham gia đào tạo, nghiên cứu cũng rất cần thiết để tạo dòng chảy tri thức toàn cầu cho giáo dục Việt Nam.
- Bên cạnh thành tựu, thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Theo ông, đâu là những điểm cần được khắc phục?
- Chúng ta phải nhìn thẳng: Thiếu giáo viên, quá tải ở đô thị, chênh lệch vùng miền, áp lực thi cử, chất lượng đại học chưa đồng đều, xã hội hóa giáo dục lệch hướng ở một số nơi... Những tồn tại này cần giải pháp đồng bộ, bền vững chứ không thể theo phong trào.
Dự thảo đã mở đường với nhiều chủ trương đúng: xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa giáo dục, đầu tư mạnh cho vùng đặc biệt khó khăn, thúc đẩy hợp tác công - tư minh bạch, phát triển học tập suốt đời và đào tạo trực tuyến chất lượng cao. Mỗi bước đi đều hướng đến mục tiêu duy nhất: Bảo đảm cơ hội học tập công bằng cho mọi công dân Việt Nam.
- Theo ông, đâu là chìa khóa để thực hiện thành công mục tiêu đổi mới giáo dục vì tương lai dân tộc?
- Giáo dục không chỉ là nhiệm vụ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mà là trách nhiệm của toàn xã hội - của Đảng, Nhà nước, mỗi bộ ngành, mỗi địa phương, mỗi gia đình, mỗi thầy cô, mỗi học sinh và từng người dân, doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tham gia mạnh mẽ vào đào tạo nhân lực; xã hội phải tôn vinh người thầy, tôn trọng tri thức và khuyến khích sáng tạo. Phụ huynh cần đồng hành với nhà trường bằng niềm tin và hiểu biết, còn học sinh phải học bằng đam mê, bằng ý chí tự cường, bằng khát vọng cống hiến.
Nếu muốn Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045, chúng ta phải tạo ra thế hệ công dân có tri thức sâu rộng, đạo đức liêm chính, văn hóa vững chắc và kỹ năng toàn cầu. Đây là nhiệm vụ lâu dài, nhưng không thể chậm trễ.
- Ông có thể chia sẻ đôi lời về ý nghĩa của công cuộc đổi mới giáo dục trong chặng đường tới?
- Đổi mới giáo dục, theo tôi, trước hết là đổi mới tư duy và văn hóa học tập. Một dân tộc biết học, biết tôn trọng người trí thức và biết trao cơ hội cho người trẻ sẽ không bao giờ bị khuất phục.
Mỗi chính sách phải đi vào cuộc sống, mỗi thầy cô phải là ngọn lửa truyền cảm hứng, mỗi học sinh phải được nuôi dưỡng niềm tin rằng tri thức có thể thay đổi cuộc đời và đất nước.
- Cảm ơn ông về cuộc trao đổi.
“Tương lai của Việt Nam không nằm đâu xa; nó đang hiện hình trong từng lớp học, từng giấc mơ trẻ thơ, trong ánh mắt những người thầy, những trái tim yêu nghề và những nỗ lực bền bỉ của toàn xã hội.
Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai dân tộc. Và khi chúng ta đặt niềm tin vào tri thức, chúng ta đang đặt nền móng cho một Việt Nam mạnh mẽ, nhân văn và thịnh vượng trong tương lai không xa. Bởi mỗi lớp học sáng đèn hôm nay là một vì sao tỏa sáng trên bầu trời tương lai đất nước”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho biết.
Trần Hòa (thực hiện)
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/khong-the-co-viet-nam-hung-cuong-neu-khong-co-nen-giao-duc-manh-post756640.html