3 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chuyển mình mạnh mẽ với nhiều thách thức và cơ hội đan xen, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là phải lựa chọn con đường phát triển phù hợp, nhằm vừa đạt được tốc độ tăng trưởng cao, vừa đảm bảo yếu tố bền vững trong dài hạn.
Việt Nam cần tập trung thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao, gắn với cam kết chuyển giao công nghệ và tăng cường liên kết với doanh nghiệp trong nước
GS.TS. Trần Thị Vân Hoa - Đại học Kinh tế Quốc dân dẫn số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, ngưỡng thu nhập cao hiện tại là 14.006 USD. Với giả định lạm phát toàn cầu trung bình ở mức 3% mỗi năm, ngưỡng này có thể tăng lên 26.835 USD vào năm 2045. Trong khi đó, với mức tăng trưởng dân số 0,7% mỗi năm, Việt Nam cần đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 9,5%/năm để đủ điều kiện gia nhập nhóm thu nhập cao.
GS.TS. Vân Hoa đề xuất 3 kịch bản tăng trưởng. Kịch bản thứ nhất có logic thiết kế là “khởi động mạnh mẽ - củng cố vững chắc và duy trì ổn định”. Trong kịch bản này, giai đoạn 1 được dự kiến là 2025-2029, với tốc độ tăng trưởng 11%/năm; Giai đoạn hai kéo dài 8 năm, từ năm 2030 đến năm 2037, với tốc độ tăng trưởng 9%/năm; Giai đoạn ba cũng là 8 năm, 2038-2045, với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7-8%/năm.
Kịch bản thứ hai được nhóm nghiên cứu đặt là mô hình tăng tốc kéo dài, với logic thiết kế là “duy trì đỉnh cao - hạ cánh mềm”. Thời gian của 3 giai đoạn trong kịch bản này đều là 7 năm, trong đó 7 năm đầu tiên phải đạt 11%/năm; 7 năm tiếp theo có tốc độ tăng trưởng GDP là 8,5-9%/năm; 7 năm cuối là 6,5-7,5%/năm.
Kịch bản thứ ba có tên là mô hình sóng tăng trưởng, với nguyên tắc là “chuẩn bị sâu rộng, tăng tốc tập trung và tối ưu hóa hiệu quả”.
Kịch bản này có tính tham vọng cao hơn, hướng tới tăng trưởng GDP 11-12%/năm trong giai đoạn 2025-2035, qua đó nâng thu nhập bình quân đầu người lên 28.370 USD vào năm 2045. Lộ trình theo kịch bản này được chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên (2025-2035) đóng vai trò nền tảng và tăng tốc, với trọng tâm là cải cách thể chế, phát triển hạ tầng và thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài chất lượng cao; Giai đoạn tiếp theo (2036-2040) hướng tới củng cố và chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên công nghệ số, tự động hóa và các ngành dịch vụ tri thức; Giai đoạn cuối (2041-2045) tập trung hoàn thiện thể chế thị trường, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng cường phát triển bền vững và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
GS.TS. Trần Thị Vân Hoa cho rằng: “Các phương án đưa ra hoàn toàn khả thi nếu Việt Nam triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp. Trong đó, hoạt động cải cách thể chế cần đi đầu, với trọng tâm là tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính, minh bạch hóa trách nhiệm, đồng thời hoàn thiện khung pháp lý thúc đẩy kinh tế số và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là qua các cơ chế thí điểm phù hợp”.
Cũng theo GS.TS. Vân Hoa, Việt Nam cần tập trung thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao, gắn với cam kết chuyển giao công nghệ và tăng cường liên kết với doanh nghiệp trong nước. Cùng với đó là phát triển hạ tầng số đồng bộ, thúc đẩy ứng dụng các công nghệ như AI, IoT, Big Data và định vị vai trò trong các chuỗi giá trị toàn cầu.
Để tạo bước đột phá, Việt Nam cần đẩy mạnh đổi mới công nghệ, chuyển sang sản xuất thông minh, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực STEM, kích thích tiêu dùng nội địa, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và tận dụng tối đa các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết.
Hiến kế để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng
Theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số không chỉ là khát vọng chiến lược, mà còn là thước đo phản ánh tầm nhìn, quyết tâm và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước.
Tuy nhiên, con đường hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số đặt ra nhiều thách thức về thể chế, nguồn lực, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, khoa học - công nghệ và năng lực nội tại của doanh nghiệp. Đồng thời, bối cảnh toàn cầu đang có nhiều biến động với các yếu tố như căng thẳng địa chính trị, chính sách các nước lớn thay đổi, vấn đề chuyển đổi số, chuyển dịch chuỗi cung ứng và yêu cầu phát triển xanh - bền vững… cũng đòi hỏi Việt Nam phải có các chiến lược phát triển linh hoạt, hiệu quả và đột phá.
PGS.TS. Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân chia sẻ, kinh nghiệm về tăng trưởng kinh tế cao và bền vững của các quốc gia Đông Á cho thấy họ đã triển khai một loạt các biện pháp đồng bộ và chiến lược. Xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn, tập trung ưu tiên các ngành công nghiệp then chốt thông qua chính sách hỗ trợ về thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh thuận lợi, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để tiếp nhận vốn và công nghệ, đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng giao thông, logistics, năng lượng và viễn thông tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng.
Các quốc gia này cũng linh hoạt chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thích ứng với thay đổi, duy trì chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, bao gồm kiểm soát lạm phát và quản lý tài khóa chặt chẽ. Ngoài ra, còn có những chính sách đặc thù để phát huy tối đa lợi thế riêng như: Nhật Bản tập trung phát triển công nghiệp và huy động nguồn lực nội địa, Hàn Quốc ưu tiên các tập đoàn lớn, Singapore mở cửa và tận dụng vị trí địa lý hay Trung Quốc cải thiện môi trường kinh doanh....
Ông Thế Anh cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi sâu sắc từ kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore trong việc hoạch định và thực thi các chiến lược để đạt được tăng trưởng kinh tế cao. Trong đó, bài học quan trọng đầu tiên là vai trò định hướng mạnh mẽ của Nhà nước trong việc xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn và tạo ra các chính sách hỗ trợ cụ thể về thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhà nước cần chủ động dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, có tiềm năng xuất khẩu với giá trị gia tăng cao.
Do đó, một chính sách ưu tiên phát triển và hỗ trợ các ngành xuất khẩu có giá trị gia tăng cao là hướng đi chiến lược để Việt Nam nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm thiểu rủi ro và bảo đảm sự phát triển bền vững trong dài hạn. Ngoài ra, tăng cường đầu tư công một cách hiệu quả vào các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao
Bổ sung thêm về hướng đi chiến lược để đạt mục tiêu tăng trưởng, TS. Đặng Thị Thu Hoài, Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược cho rằng, việc phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một trụ cột quan trọng. Điều này đòi hỏi không chỉ tăng đầu tư công mà còn huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong các lĩnh vực then chốt.
Việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ cần được đẩy mạnh. Những trung tâm này không chỉ tạo không gian thử nghiệm công nghệ mà còn trở thành điểm kết nối giữa doanh nghiệp khởi nghiệp, nhà đầu tư và các tổ chức hỗ trợ. Song song đó, Việt Nam cần xây dựng chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, thông qua các công cụ như ưu đãi thuế cho chi phí R&D, tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ mới.
Đặc biệt, cần khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa sự hợp tác giữa doanh nghiệp với các viện nghiên cứu, trường đại học, để hình thành các cụm liên kết ngành, từ đó tạo nền tảng cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vững chắc và lan tỏa tại Việt Nam trong thời gian tới.
ĐT