Trong suốt một thế kỷ, kiến thức tôi cóp nhặt đã nhiều lên đáng kể và tôi hy vọng bạn cũng vậy trong suốt cuộc đời mình. Theo thời gian, tôi thay đổi nhiều quan điểm. Đây là một phần tự nhiên của việc sống.
Có những điều mà trước kia tôi nghĩ là đúng nhưng giờ đây lại cho là sai. Thật vậy; dù hôm nay bạn có những niềm tin mạnh mẽ đến đâu, nếu bạn sống hơn một trăm năm, tôi chắc chắn sẽ có ngày bạn nhìn lại và bất đồng với nhiều suy nghĩ và quan niệm cũ của chính mình! Tôi có một trăn trở liên quan đến công việc khiến tôi thật sự khổ tâm. Nó từng ảnh hưởng đến hàng trăm phụ nữ và trẻ em mà tôi chăm sóc trong những khoảnh khắc dễ tổn thương nhất của cuộc đời họ.
Khi tôi được đào tạo đỡ đẻ, quan niệm phổ biến lúc đó là phụ nữ nên được đưa vào trạng thái gọi là “giấc ngủ chập chờn” (twilight sleep) để tránh cơn đau chuyển dạ. Khi ấy, vì người mẹ không thể rặn, bác sĩ sẽ dùng kẹp chuyên dụng để kéo em bé ra.
Tôi đã sinh hai đứa con đầu lòng theo cách đó. Chính tôi cũng đã đỡ đẻ cho nhiều ca khác bằng kẹp chuyên dụng, và tôi thậm chí còn thuần thục với cách đỡ này. Tôi làm vậy vì được dạy rằng đây là một phương pháp tuyệt vời trời ban sau hàng thế kỷ phụ nữ phải chịu đựng cơn đau đẻ quằn quại. Thời điểm đó, nó còn được coi như một cách hỗ trợ sinh sản đầy nhân ái, lấy phụ nữ làm trung tâm. Giờ đây, tôi mới thấy đó là một cách tàn nhẫn để chào đón một đứa trẻ đến với thế giới và phần lớn trường hợp đều không cần thiết.
Bác sĩ Gladys - người sống 104 tuổi với nhiều chiêm nghiệm. Ảnh: The Today Show.
Ngày nay, dù tôi hoàn toàn ủng hộ những phụ nữ muốn sử dụng thuốc giảm đau khi sinh, tôi cho rằng thật sai lầm khi nói với các bà mẹ rằng họ không thể tự dùng sức mình sinh con. Tôi nhận ra sức mạnh và ý nghĩa của việc trải qua quá trình sinh nở, và dù người mẹ cuối cùng có sinh bằng cách can thiệp y tế hay không, tôi sẽ không bao giờ máy móc khuyên họ nên dùng gây mê. Tôi cũng nghĩ rằng kéo em bé ra bằng kẹp là biện pháp dễ gây tổn thương.
Nhìn lại, tôi nghĩ mình có lẽ nên tự trách bản thân vì những ca sinh mà tôi từng thực hiện theo cách này. Tôi cũng nên tự trách mình vì đã sinh hai đứa con đầu lòng theo cách ấy. Tôi đã không chọn sinh những đứa con sau như vậy.
Không chỉ trong việc sinh nở, tôi còn có thể tự trách mình vì những loại thực phẩm tôi từng cho con ăn mà khi ấy tôi nghĩ là tốt cho sức khỏe, vì những quan điểm cũ mà giờ đây tôi thấy kinh hãi, hay vì những lời đã nói ra mà giờ đây tôi chỉ mong có thể rút lại.
Nhưng tôi cũng có thể nói Kutch par wa nay và biết rằng sau khi nhận được thông tin mới, tôi đã hành xử khác đi. Hầu như tôi luôn làm tốt nhất có thể với những gì mình có vào thời điểm đó. Tôi đã đưa ra những lựa chọn của mình bằng tình yêu, và tôi chọn sống mà không hối tiếc. Ai cũng phải đối mặt với niềm hối tiếc, vấn đề là, chúng ta nên giữ nó lại bao lâu?
Tại thị trấn nhỏ ở Ohio đó, tôi từng làm việc với một người cha suýt vô tình làm hại đứa con mới sinh của mình. Matthew khoảng hai mươi tuổi, và vợ cậu, Connie, còn trẻ hơn. Tôi đã chăm sóc Connie suốt thai kỳ và biết cô ấy sắp sinh. Nhưng giống như nhiều người trong vùng, cô chuyển dạ khá lâu trước khi gọi tôi, và tôi cũng mất một chút thời gian để đến nơi.
Thời điểm đó tôi rất bận bịu. Khi chúng tôi bắt đầu hành nghề, thị trấn có sáu bác sĩ đa khoa, nhưng dần dần họ đều lần lượt nghỉ hưu. Sau đó, Bill nhập ngũ trong Chiến tranh Triều Tiên, vì thế tôi trở thành bác sĩ duy nhất chăm sóc gần chín nghìn bệnh nhân, trong khi nuôi dạy bốn đứa con nhỏ cùng lúc. Tôi đang dở tay điều trị cho một bệnh nhân thì nhận được cuộc gọi từ nhà Matthew và Connie, thế là phải mất thêm khoảng một giờ nữa mới hoàn tất nốt công việc rồi đi vào vùng đồi nhà vợ chồng trẻ.
Matthew ra mở cửa với vẻ hoảng loạn. “Bác sĩ Gladys, Connie sinh rồi, nhưng chảy máu nhiều lắm.” “Là ai chảy máu?” Tôi hỏi, vừa tháo phăng găng tay và mũ vừa vội vàng chạy xuống cuối hành lang với túi bác sĩ. “Connie hay em bé?”
“Cả hai,” cậu nói, mặt tái xanh, “nhưng em lo cho em bé hơn. Em đã cắt dây rốn như phải làm, nhưng máu cứ xối xả ra không ngừng.”
Tôi lao vào phòng ngủ, thấy Connie đang tái mét vì sợ hãi, ôm trong tay một bọc nhỏ. Trên giường là một mớ hỗn độn be bét từ ca sinh, và một chiếc kéo để mở nằm trên bàn cạnh giường.Tôi cúi xuống bế đứa bé lên và thấy chiếc chăn đã nhuốm đỏ máu. Tất cả nín lặng khi tôi nhẹ nhàng gỡ lớp chăn ra. Trên bụng em bé ấy, máu đang chảy không ngừng, “xối xả” quả là từ chính xác, vì dây rốn đã bị cắt sát đến da bụng. Đứa bé cũng im bặt như cha mẹ của nó, và tôi lạnh cả người.
Thông thường, chúng tôi phải kẹp dây rốn trước khi cắt, và cắt cách rốn khoảng năm centimet. Điều này giúp động mạch rốn đóng lại, vì cho đến thời điểm này nó vẫn chịu trách nhiệm cung cấp máu cho em bé. Bụng bé sẽ có một đoạn dư trông không đẹp mắt lắm khoảng vài ngày, sau đó nó tự động rơi ra. Và nói chung, không cần phải cắt dây rốn ngay lập tức. Nhưng Matthew, vốn đang tràn đầy adrenaline khi tự đỡ đẻ cho con gái và chưa có kiến thức về các bước tiếp theo, đã nghĩ đến vết rụng rốn sát bụng của chính mình và cắt dây rốn của con gái cậu cũng y như vậy.
Tôi lôi nhanh dụng cụ y tế từ túi đồ nghề, tìm ra một bộ kẹp nhỏ gọi là kẹp cầm máu, và nhúng vào dung dịch khử trùng. Em bé đã mất rất nhiều máu, không thể chần chừ thêm nữa. Matthew và Connie ôm nhau, kinh hãi, khi tôi quỳ xuống bên giường và chọc nhẹ quanh phía trong bụng em bé, tìm động mạch rốn. Nó nằm sâu bên trong, và em bé bắt đầu khóc ngay khi tôi chạm vào vết thương, tiếng khóc trở thành tiếng ré tuyệt vọng khi tôi chọc quanh phía trong bằng kẹp.
Rồi em bé ngừng khóc, tôi lại lo lắng hơn. Em quá yếu vì mất máu đến nỗi không thể khóc nữa. Phải mất như cả mấy phút đầy đau đớn để dò dẫm động mạch đó, trong khi em bé khóc thét lên lần nữa, rồi thở dốc, nhưng cuối cùng tôi đã chụp được động mạch, kẹp chặt lấy nó và cứu sống bé.
Lúc sau, Matthew lắp bắp xin lỗi, nhưng tôi đã cắt ngang ngay khi cậu cất lời. “Matthew, cậu đã làm hết sức với những thông tin mình biết,” tôi nói nhẹ nhàng nhưng kiên quyết. “Đừng lãng phí sức lực vào chuyện này, vợ và con gái giờ đang cần cậu. Tất nhiên đó chỉ là một tai nạn thôi. Tất nhiên là cậu không rành. Đừng vô lý tự trách móc bản thân vì những chuyện không thể thay đổi.” Tôi úp tay xuống sàn khi nói, “Hãy bỏ nó đi. Con gái cậu còn sống, và cô bé sẽ khỏe thôi. Bỏ đi thôi.” Và tôi đã đúng. Tôi còn nghe về gia đình họ những năm sau đó, biết rằng cô bé vẫn khỏe mạnh.
Suốt nhiều năm về sau, tôi vẫn nghĩ về Matthew, một người cha trẻ, sợ hãi ở trên đồi, một mình đỡ đẻ. Tôi đã cầu nguyện rằng sai lầm đó sẽ không ám ảnh cậu, vì tôi tin vào lời mình đã nói: chẳng có lý do gì để dằn vặt bản thân vì những điều không thể thay đổi. Tốt nhất là chúng ta buông bỏ nó và đi tiếp.
Tôi không biết trong quá khứ bạn đã mắc những sai lầm nào, nhưng tôi muốn nói rằng bạn đã làm hết sức mình, với những gì bạn có khi ấy. Nếu bạn đang sống trong giày vò hối tiếc, hãy cố gắng đối diện nó và xem có gì đang chuyển động không. Có phải sau đó mọi việc đều ổn thỏa cả không? Nếu đúng là vậy, hãy biết ơn! Có gì tức cười trong chuyện đó không? Nếu có, hãy cứ cười phá lên!
Bạn có học được gì mới kể từ đó chưa? Nếu có, hãy nắm lấy bài học mới ấy và áp dụng nó mọi lúc mọi nơi! Hãy làm mọi cách có thể để buông bỏ niềm hối tiếc, tha thứ cho bản thân và nếu cần, xin người khác tha thứ để bạn có thể tiếp tục cuộc sống của mình.
Đôi khi, chúng ta nhận ra rằng một hành động đơn giản như nói Kutch par wa nay có thể tạo ra khác biệt lớn lao. Nhưng đôi khi, chúng ta cứ ôm khư khư niềm hối tiếc, nỗi đau đớn hay cảm giác bị mắc kẹt. Đó là vì trong hệ thống của ta có vật cản gây tắc nghẽn mà ta cần sớm loại bỏ.
Gladys McGarey/NXB Trẻ