Có 3 rủi ro chính sẽ tác động đến nền kinh tế và thị trường Đông Nam Á trong phần còn lại của năm 2024 và đến năm 2025. Đầu tiên là xung đột ngày càng lan rộng ở Trung Đông, có thể làm gia tăng hơn nữa rủi ro địa chính trị và đẩy giá năng lượng lên cao. Thứ hai, sự không chắc chắn là liệu các biện pháp kích thích trên diện rộng của Trung Quốc, có đủ để thúc đẩy nền kinh tế của nước này hay không.
Và sự bất ổn thứ ba có tác động lớn nhất là cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào ngày 5-11, bởi có thể tác động đến nền kinh tế Mỹ từ chính sách tiền tệ, lãi suất đồng USD của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), kéo theo các nền kinh tế trên toàn thế giới bị ảnh hưởng.
Chính sách của ông Trump mang theo rủi ro lạm phát
Nhiều thảo luận đã được thực hiện về khả năng gây ra lạm phát tiềm ẩn từ những chính sách kết hợp mà ông Trump mong muốn. Bởi trong quá trình vận động tranh cử, ông Trump đã ủng hộ một loạt các biện pháp thuế quan leo thang. Mức thuế thương mại này tăng đáng kể đối với Trung Quốc, lên 60%, mức thuế trừng phạt 200% đối với xe nhập khẩu từ Mexico.
Những mức thuế này sẽ được cộng vào mức thuế quan chung mà ông đề xuất là 10% đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ.
Ông Trump cũng đã gợi ý rằng, thuế quan thương mại có thể được sử dụng để chi trả cho việc cắt giảm thuế. Và ông muốn các công ty sản xuất hàng hóa tại Mỹ sẽ được hưởng khi giảm từ mức 21% hiện tại xuống 15%.
Tuy nhiên, điều này có thể gây ra lạm phát, vì việc gia tăng thuế quan thương mại của ông sẽ dẫn đến giá hàng nhập khẩu cao hơn. Ngoài ra, ông Trump cũng muốn hồi hương và trục xuất những người nhập cư bất hợp pháp - một ý tưởng có thể thắt chặt thị trường lao động và đẩy tiền lương lên cao, tạo ra một áp lực gây ra lạm phát khác.
Và thực tế, các chính sách này dù chỉ được thực hiện một phần, cũng có thể gây ra lạm phát cho nền kinh tế Mỹ. Viện Kinh tế Quốc tế Peterson đã cảnh báo, các đề xuất thuế quan của ông Trump có thể khiến một hộ gia đình Mỹ phải trả hơn 2.600USD một năm. Từ mức lạm phát cao hơn này, có thể dẫn đến một lộ trình cắt giảm lãi suất ít hơn từ Fed so với dự đoán của thị trường.
Các chính sách bà Harris có mục tiêu cụ thể hơn
Ngược lại với ông Trump, ứng cử viên đảng Dân chủ bà Harris cho đến nay đã phác họa các chính sách mong muốn của mình một cách khái quát. Về chính sách thương mại, bà có khả năng sẽ tiếp tục cách tiếp cận "sân nhỏ, hàng rào cao" của chính quyền ông Biden, áp dụng mức thuế quan có mục tiêu cụ thể hơn cho các ngành công nghiệp, với cách tiếp cận ít đối đầu hơn so với cách tiếp cận do ông Trump đề xuất.
Về chính sách thuế, bà đã đề xuất tăng thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao nhất, tăng thuế đối với nhóm có mức tăng vốn cao nhất và tăng thuế đối với các tập đoàn, trong khi việc giảm thuế dành riêng cho các ngành chiến lược và các ngành công nghiệp sạch.
Bởi bà muốn hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và các hộ gia đình nghèo ứng phó với chi phí sinh hoạt gia tăng. Nói chung, các chính sách kinh tế mà bà đề xuất có mục tiêu cụ thể hơn và ít cực đoan hơn so với ông Trump, và có khả năng ít gây ra lạm phát cho nền kinh tế Mỹ.
Không giống như các đề xuất của ông Trump về việc Tổng thống giám sát nhiều hơn đối với các quyết định về chính sách tiền tệ, bà Harris đã ủng hộ sự độc lập đang diễn ra của Fed, và không đề xuất bất kỳ biện pháp nào để đơn phương phá giá đồng USD - một đề xuất mà ông Trump cũng đã đưa ra nhiều lần.
Và cả 2 đều không tập trung kiềm chế gia tăng nợ công
Một điểm đáng thất vọng là cả 2 ứng cử viên Tổng thống đều không tập trung nhiều vào sự suy giảm ngày một nhiều hơn về triển vọng tài chính của Mỹ. Nợ công chưa thanh toán của quốc gia đã tăng vọt từ dưới 20.000 tỷ USD trước khi đại dịch Covid-19 bắt đầu vào năm 2020, lên mức hiện tại khoảng 30.000 tỷ USD.
Văn phòng Ngân sách Quốc hội đã dự báo một bước tăng vọt hơn nữa trong nợ công chưa thanh toán, có thể vượt quá 50.000 tỷ USD, hoặc 120% tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ vào năm 2034. Và khi nợ tăng sẽ có tác động tiêu cực rộng rãi đến nền kinh tế Mỹ.
Chẳng hạn tăng trưởng kinh tế có khả năng sẽ chậm lại, vì doanh thu Kho bạc Mỹ thu được sẽ được sử dụng để trả lãi, thay vì phục vụ nhu cầu dài hạn của nền kinh tế Mỹ. Các cơ quan xếp hạng tín dụng đã gợi ý rằng, việc hạ xếp hạng tín dụng có chủ quyền của Mỹ có thể xảy ra trong trung hạn, nếu tình trạng nợ tài chính xấu đi không được kiểm soát.
Đông Nam Á sẽ ra sao?
Đối với các nền kinh tế trong khu vực, các chính sách của ông Trump có thể dẫn đến một kịch bản lạm phát mới, điều đó có thể góp phần làm cho lãi suất khó điều chỉnh hơn, và góp phần củng cố sức mạnh của USD.
Các chính sách đối ngoại và thương mại mang tính đối đầu với Trung Quốc của ông Trump, cũng có thể làm tăng rủi ro địa chính trị trên toàn khu vực. Bởi nó kìm hãm sự phục hồi tăng trưởng và dòng chảy thương mại đối với Trung Quốc trên khắp Đông Nam Á. Điều này có thể khiến các chính quyền khu vực và ngân hàng trung ương phải hiệu chỉnh lại chính sách tài khóa và tiền tệ tương ứng vào năm 2025.
Hiện tại, tăng trưởng kinh tế và triển vọng thương mại của Đông Nam Á vẫn tươi sáng, nhờ sự phục hồi của chi tiêu bán lẻ và xuất khẩu hàng điện tử trên toàn khu vực. Hầu hết các quốc gia trong khu vực dự kiến sẽ chứng kiến tăng trưởng GDP và sức mạnh tiền tệ cao hơn vào năm 2025.
Về lâu dài, các xu hướng lớn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế khu vực như dân số trẻ, tầng lớp trung lưu đang phát triển, hoạt động thương mại xuyên biên giới và hội nhập sâu rộng hơn trong các ngành công nghiệp khu vực, sẽ tạo tiền đề cho tăng trưởng mạnh mẽ hơn.
Tóm lại, trong bối cảnh bất ổn sắp tới đối với thương mại toàn cầu phát sinh từ cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, điều quan trọng là phải lưu ý đến mối quan hệ thương mại mạnh mẽ và hỗ trợ được thiết lập bởi Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Bởi ASEAN cũng dự kiến sẽ làm mới hiệp định thương mại tự do lâu đời của mình với Trung Quốc.
Bất chấp triển vọng không chắc chắn từ cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, Đông Nam Á sẽ vẫn là khu vực ổn định cho tăng trưởng kinh tế và các cơ hội thương mại mạnh mẽ.
HENG KOON HOW