Kinh tế Việt Nam 9 tháng 2025: GDP tăng 7,84%, FDI duy trì đà tăng mạnh

Kinh tế Việt Nam 9 tháng 2025: GDP tăng 7,84%, FDI duy trì đà tăng mạnh
2 giờ trướcBài gốc
GDP 9 tháng 2025 tăng 7,84%, lạm phát tăng 3,18%
Tại báo cáo Bộ Tài chính gửi tới Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2025 và tình hình thực hiện Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 31/5/2025 đã đánh giá toàn diện về tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm.
Trong 9 tháng năm 2025, nền kinh tế Việt Nam duy trì đà phục hồi ổn định, với GDP ước tăng 7,84% so với cùng kỳ năm trước. Sự tăng trưởng này đến từ sự đóng góp ngày càng cân đối giữa các ngành, tạo nền tảng vững chắc cho việc hoàn thành mục tiêu cả năm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 5,36% vào tổng tăng trưởng. Dù chịu tác động của bão, mưa lũ, sản xuất nông nghiệp vẫn được duy trì ổn định nhờ các biện pháp ứng phó kịp thời. Trong đó, nông nghiệp tăng 3,46%, lâm nghiệp tăng 6,46%, thủy sản tăng 4,48%, lần lượt đóng góp 3,53%; 0,42%; 1,41%.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 5,36% vào tổng tăng trưởng.
Khu vực công nghiệp và xây dựng tiếp tục là động lực chính, với giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng tăng 8,55%, đóng góp 35,88% vào tổng tăng trưởng. Điểm sáng thuộc công nghiệp chế biến, chế tạo với tốc độ tăng 9,92%, chiếm 31,74% đóng góp; ngành xây dựng tăng 9,33%, đóng góp 7,99%.
Khu vực dịch vụ ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ nhờ nhu cầu tiêu dùng, du lịch trong nước tăng cao. Giá trị tăng thêm toàn khu vực dịch vụ 9 tháng tăng 8,48%, chỉ thấp hơn mức tăng 11,37% của năm 2022. Bán buôn, bán lẻ tăng 8,28%, vận tải, kho bãi tăng 10,68%, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 7,06%, dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 10,15%, lần lượt đóng góp 10,75%; 8,92%; 5,16%; 1,50%.
Về cơ cấu nền kinh tế, khu vực dịch vụ và công nghiệp tiếp tục chiếm ưu thế, tỷ trọng 9 tháng 2025 gồm: nông, lâm nghiệp và thủy sản 11,30%; công nghiệp và xây dựng 37,58%; dịch vụ 42,92%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp 8,20%, phù hợp với xu hướng phát triển hiện đại của nền kinh tế.
Ảnh minh họa
Về lạm phát cơ bản, chỉ số này duy trì ở mức thấp hơn CPI chung, cho thấy áp lực chủ yếu đến từ các nhóm hàng thiết yếu được loại trừ khỏi tính lạm phát cơ bản. Lạm phát cơ bản tháng 9 tăng 0,20% so với tháng trước, và tăng 3,18% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 9 tháng năm 2025, lạm phát cơ bản tăng 3,19%, thấp hơn mức 3,27% của CPI bình quân chung, do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ y tế, giáo dục thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Giá vàng có lúc chênh lệch lên tới 20 triệu đồng/lượng
Cũng tại báo cáo của Bộ Tài chính cho biết, trong những tháng đầu năm 2025, giá vàng thế giới liên tục phá vỡ các mức kỷ lục trước đó, do bất ổn chính trị, xung đột quân sự và cạnh tranh chiến lược toàn cầu, như xung đột Nga – Ukraine kéo dài và căng thẳng giữa Israel với một số quốc gia, lực lượng Hồi giáo tại Trung Đông. Nhiều ngân hàng trung ương và quỹ đầu tư đẩy mạnh mua vàng để bổ sung dự trữ ngoại hối cũng là nguyên nhân quan trọng khiến giá vàng tăng. Tại Việt Nam, giá vàng miếng SJC diễn biến cùng chiều với giá vàng thế giới.
Đến tháng 4/2025, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới vượt 10 triệu đồng/lượng, cuối tháng 8/2025 chênh lệch lên tới 19-20 triệu đồng/lượng. Trước bối cảnh này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phối hợp các giải pháp quản lý thị trường vàng, đề xuất Chính phủ ban hành Nghị định số 222/2025/NĐ-CP ngày 25/8/2025, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, có hiệu lực từ 10/10/2025. Nghị định mới bám sát chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Thông báo số 211-TB/VPTW ngày 30/5/2025 của Tổng Bí thư về xóa bỏ cơ chế độc quyền Nhà nước trong sản xuất vàng miếng.
Giá vàng có lúc chênh lệch lên tới 20 triệu đồng/lượng
Tính đến ngày 29/9/2025, bình quân giá vàng thế giới đạt 3.688,38 USD/ounce, tăng 7,90% so với tháng trước. Ngày 17/9/2025, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) giảm lãi suất điều hành xuống 4%-4,25%, khiến đồng USD suy yếu, lợi suất trái phiếu giảm, qua đó làm gia tăng sức hấp dẫn của vàng. Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại kéo dài và rủi ro địa chính trị gia tăng cùng kỳ vọng lạm phát còn hiện hữu đã thúc đẩy nhu cầu nắm giữ vàng như tài sản trú ẩn an toàn. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 9 tăng 6,53% so với tháng trước; tăng 35,4% so với cùng kỳ 2024; tăng 45,42% so với tháng 12/2024; bình quân chín tháng năm 2025 tăng 41,86% so với cùng kỳ năm trước.
Giải ngân đạt khoảng 440,4 nghìn tỷ đồng
Nhờ các giải pháp quyết liệt và chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ, giải ngân vốn đầu tư công trong 9 tháng năm 2025 duy trì tốc độ ổn định so với tháng trước. Ước giải ngân đạt khoảng 440,4 nghìn tỷ đồng, tương đương 55% kế hoạch Thủ tướng giao đầu năm, cao hơn cùng kỳ năm 2024 về tỷ lệ 4,5% và 132,6 nghìn tỷ đồng về số tuyệt đối. Tuy nhiên, mục tiêu đạt 100% kế hoạch vẫn còn thách thức do một số vướng mắc pháp lý và phát sinh thực tiễn.
Giải ngân đầu tư công đạt khoảng 440,4 nghìn tỷ đồng.
Về vốn đầu tư nước ngoài, đến hết tháng 9/2025, tổng vốn đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,5 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ. Vốn thực hiện ước đạt khoảng 18,8 tỷ USD, tăng 8,5%. Lũy kế đến 30/9/2025, cả nước có 44.476 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 523,3 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 341,4 tỷ USD, chiếm 65,2% tổng vốn đăng ký.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 9 tháng có sự phân hóa giữa số lượng dự án và quy mô vốn đăng ký cấp mới. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với 7,27 tỷ USD (58,8% tổng vốn), tiếp theo là bất động sản 2,54 tỷ USD (20,6%) và các ngành khác 2,55 tỷ USD (20,6%). Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài cũng tăng vượt bậc, chủ yếu tại ASEAN và một số thị trường phát triển, phản ánh niềm tin vào triển vọng kinh tế Việt Nam trong những tháng đầu năm.
Ánh Phương/VOV.VN
Nguồn VOV : https://vov.vn/kinh-te/kinh-te-viet-nam-9-thang-2025-gdp-tang-784-fdi-duy-tri-da-tang-manh-post1235551.vov