Đề cao trách nhiệm cộng đồng, xã hội
- Năm nay là tròn 20 năm Chính phủ lấy ngày 23/11 hàng năm là Ngày Di sản văn hóa Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa thời gian qua, đặc biệt từ khi có Ngày Di sản văn hóa Việt Nam?
- Cách đây 80 năm, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL “Ấn định nhiệm vụ của Đông Phương Bác cổ Học viện” - sắc lệnh đầu tiên của chính thể mới về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, đặt nền móng cho sự nghiệp bảo vệ di sản văn hóa nước nhà. Xuất phát từ ý nghĩa lịch sử của Sắc lệnh số 65/SL, ngày 24/2/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 36/2005/QĐ-TTg, lấy ngày 23/11 hàng năm là Ngày Di sản văn hóa Việt Nam.
PGS. TS Đỗ Văn Trụ
Có thể nói, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng được coi trọng. Hệ thống pháp luật về di sản văn hóa không ngừng được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước. Chúng ta đã có Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2024. Đặc biệt, Luật Di sản văn hóa năm 2004 là bước tiến rất lớn với nhiều điểm mới, tiếp cận xu thế quốc tế, phù hợp tình hình Việt Nam. Các nghị định, thông tư đã cụ thể hóa nhiều nội dung quan trọng, tạo thuận lợi cho công tác bảo tồn di sản.
Bên cạnh đó, ý thức cộng đồng trong bảo vệ di sản ngày càng được nâng cao. Từ khi có Ngày Di sản văn hóa Việt Nam, việc bảo vệ di sản không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là của toàn xã hội, của các cộng đồng, những chủ thể nắm giữ và gìn giữ di sản qua nhiều thế hệ.
- Theo ông, những thách thức đặt ra đối với công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay là gì?
- Thách thức lớn nhất là mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển. Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa, phát triển kinh tế thị trường khiến nảy sinh nhiều bất cập. Có thể thấy, hành lang pháp lý về di sản văn hóa đã quy định rõ, nhưng để pháp luật đi vào thực tiễn còn gặp nhiều hạn chế. Như chính sách bảo vệ bảo vật quốc gia, khi được Thủ tướng công nhận, pháp luật yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt, tuy nhiên tại nhiều địa phương chưa thực hiện tốt, dẫn đến bảo vật hư hỏng, mất trộm.
Hơn nữa, số lượng di tích của Việt Nam hiện nay rất nhiều, cả nước hiện có hơn 40.000 di tích, riêng các di tích được xếp hạng cấp quốc gia là hơn 3.600. Tuy nhiên, kinh phí để đầu tư bảo tồn, trùng tu, tu bổ còn hạn chế, làm chỗ này hỏng chỗ khác, quanh đi quanh lại suốt tháng suốt năm. Vì vậy, Nhà nước cần có chế độ khuyến khích, vận động xã hội hóa. Hà Nội là một ví dụ tốt về mô hình Nhà nước và nhân dân cùng làm, Nhà nước hỗ trợ 30 - 40%, còn lại xã hội hóa. Mới thấy, vai trò xã hội hóa trong bảo tồn di tích cần được phát huy và nhân rộng. Luật Di sản văn hóa 2024 cũng đã đề cao yếu tố cộng đồng và trách nhiệm xã hội. Di sản muốn phát huy hiệu quả phải dựa vào chính cộng đồng.
Sống được nhờ di sản, người dân sẽ quay trở lại bảo vệ di sản
- Tiềm năng di sản của Việt Nam rất lớn nhưng để khai thác đem lại hiệu quả kinh tế, “biến di sản thành tài sản”, cũng là một thách thức, thưa ông?
- “Biến di sản thành tài sản” là một chủ trương đúng đắn. Di sản không chỉ tiêu tiền, mà từ di sản phải làm ra tiền, tạo ra lợi ích thiết thực cho cộng đồng, cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả công việc này hiện chưa tương xứng với tiềm năng. Nhiều di sản đã được xếp hạng nhưng chưa chuyển hóa thành lợi ích kinh tế.
Để di sản thành tài sản phải có sự chung tay của nhiều phía, cơ quan quản lý, nhà nghiên cứu, nghệ nhân, doanh nghiệp. Một số di tích đã làm tốt công tác này như: Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hỏa Lò, Cố đô Huế, Hạ Long, Tràng An, Hội An… Tại đây, người dân đã sống được nhờ di sản, từ di sản, và từ đó họ quay trở lại bảo vệ di sản.
Về luật pháp, không thể đòi hỏi sự hoàn thiện tuyệt đối, vì thực tiễn luôn vận động, phát sinh vấn đề mới. Điều quan trọng là quá trình thực thi luật, có chính sách cụ thể, như chế độ đãi ngộ nghệ nhân, bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, tu bổ di tích, bảo vật quốc gia... Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, định hướng; bảo vệ và phát huy giá trị di sản cần dựa vào sức dân và nguồn lực xã hội.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám được đánh giá là thực hiện tốt chủ trương "biến di sản thành tài sản". Ảnh: H.Sen
- Với Luật Di sản văn hóa 2024 có nhiều điểm mới như ông vừa nói, ông kỳ vọng như thế nào về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản thời gian tới?
- Nhìn sang các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, họ làm rất tốt việc biến di sản thành nguồn lực kinh tế, đặc biệt qua du lịch, dịch vụ văn hóa, giáo dục di sản. Điều đáng chú ý là ở họ, nguồn thu từ du lịch di sản được quay trở lại đầu tư cho di sản, tạo vòng tuần hoàn bền vững. Chúng ta cũng nói nhiều về phát triển du lịch từ di sản, nhưng nguồn thu đó đã quay lại bao nhiêu để đầu tư cho di sản? Đây là vấn đề cần nghiên cứu nghiêm túc.
Cũng cần khẳng định, di sản là tài sản vô giá của dân tộc. Muốn di sản thực sự trở thành nguồn lực và động lực phát triển, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, tăng cường xã hội hóa, nâng cao ý thức cộng đồng và đặc biệt là hiện thực hóa chủ trương “biến di sản thành tài sản”. Khi người dân sống được nhờ di sản, di sản sẽ được bảo vệ bền vững nhất.
- Xin cảm ơn ông!
Hương Sen thực hiện