Tất cả những thành quả vĩ đại mà đất nước và dân tộc ta đạt được trong 95 năm qua đều gắn với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng.
Biểu diễn khinh khí cầu dịp chào mời năm mới 2025 tại Tỉnh ủy. Ảnh: Công Nghĩa
Một dân tộc quật cường
Sau khi chiếm được nước Việt Nam, thực dân Pháp tự hào đã chiếm được đất nước hùng mạnh khi ấy. Năm 1897, khi sang làm Toàn quyền Đông Dương, Paul Doumer đã tiến hành khai thác thuộc địa, khảo sát các vùng của đất nước Việt Nam, ông cũng đi thuyền khảo sát dòng sông Đồng Nai lên tận trên vùng người dân tộc ở Vĩnh Cửu và ông để lại một cuốn hồi ký với tiêu đề “Xứ Đông Dương”.
Trong tác phẩm này, Paul Doumer đánh giá rằng, nếu có một dân tộc có thể so sánh với người Việt Nam về trí thông minh thì đó là dân tộc Nhật Bản. Thậm chí ông còn ví von rằng có thể người Việt Nam và người Nhật Bản xa xưa vốn cùng chung một gốc. Một dân tộc quật cường có bề dày và chiều sâu văn hóa như dân tộc Việt Nam chúng ta trong nửa cuối thế kỷ XIX sau thời gian dài “bế quan tỏa cảng”, gần như chỉ biết giao thiệp và học ở Trung Hoa đã lạc hậu trước thời cuộc. Một quốc gia ở gần Việt Nam, có thể tạm gọi là “đồng văn, đồng chủng” là Nhật Bản đã ngay lập tức đổi mới để bắt kịp với sự tiến bộ nhanh chóng trên thế giới lúc bấy giờ.
Trong khi các quốc gia khác trên thế giới tiến nhanh, tiến mạnh bằng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì tầng lớp Nho sĩ Việt Nam vẫn nệ cổ với những tích xưa, điển cũ. Có lẽ vì vậy mà khi tiếng súng xâm lược của thực dân dội vào từ biển Đông thì hầu như cả dân tộc vẫn chưa tỉnh hẳn. Vốn có truyền thống yêu nước quật cường, cha ông chúng ta đã anh dũng đứng dậy cầm vũ khí chống lại quân thù, song làm sao văn chương, thơ phú, sĩ khí của nhà Nho khi ấy có thể chiến thắng nổi tàu đồng, súng cối, vậy nên nước ta nhanh chóng bị xâm lăng.
Dự án Cầu Thống Nhất nối phường Hiệp Hòa và Thống Nhất (thành phố Biên Hòa) đang gác dầm những ngày cận Tết. Ảnh: Công Nghĩa
Từ đó cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hàng loạt các phong trào yêu nước, tầng tầng lớp lớp những bậc cha anh anh hùng đã bị thực dân Pháp xử tù đày, giết hại. Đất nước và dân tộc trong một giai đoạn lịch sử được gọi là tiền đồ đen tối như không có đường ra.
“Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ/ Không quê hương sương gió tơi bời/ Đảng ta sinh ở trên đời/Một dòng máu đỏ nên người hôm nay” (Tố Hữu - Ba mươi năm đời ta có Đảng).
Thiếu quê hương chẳng bao giờ không đau khổ, có đất nước, có quê hương mà vẫn thiếu quê hương. Một đảng sinh ra từ gian khó ấy đã nhanh chóng nhận lãnh trách nhiệm lịch sử trọng đại mà dân tộc và các thế hệ đi trước đã trao trọng trách.
Vừa ra đời, với thế và lực còn nhỏ bé, nhưng đảng đã hòa mình vào các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền vận động và tổ chức nhân dân lao động dấy lên phong trào cách mạng rộng khắp cả nước từ Xô viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 đến cuộc vận động dân chủ 1936-1939 và cao trào cách mạng 1941-1945: “Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt/ Đảng ta đây xương sắt da đồng/ Đảng ta muôn vạn công nông/ Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin” (Tố Hữu - Ba mươi năm đòi ta có Đảng).
Mùa xuân, nghĩ về Đảng, chắc hẳn những người Việt Nam chân chính đang được hưởng những thành quả của đất nước hôm nay không thể quên công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của bao lớp người Việt Nam yêu nước, của những đảng viên kiên trung của Đảng đã ngã xuống để Tổ quốc thống nhất, vẹn toàn và phát triển hôm nay. Và, hẳn nhiên, mỗi công dân chân chính của đất nước sẽ luôn nhắc nhở mình để xứng đáng với tiền nhân, để sự hy sinh của các thế hệ đi trước không phải là điều phí phạm.
Sức mạnh "chuyển núi, dời sông"
Lênin từng khẳng định rằng, một đảng tiền phong dầu mạnh đến bao nhiêu cũng chỉ có khả năng khuấy động trong năm ba vạn người, sức mạnh vĩ đại nhất chính là sức mạnh của Nhân dân. Mới 15 tuổi, với hơn 5 ngàn đảng viên mà một số đông vẫn còn bị giam giữ trong nhà tù của thực dân, đế quốc, những người Cộng sản đã lãnh đạo Nhân dân vùng lên với sức mạnh “chuyển núi, dời sông” làm nên cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại, đổi đời cho dân tộc Việt Nam. Để đi tới ngày thống nhất đất nước, dân tộc ta lại phải trải qua 21 năm trường chiến tranh gian khổ. “Tác phẩm càng vĩ đại thì đau khổ, hy sinh càng nhiều (…) Làm một cuộc cách mạng phải mấy thế hệ mang nặng, mấy cuộc đẻ đau và mấy mươi năm nuôi dưỡng”. Nhà cách mạng Nguyễn Văn Nguyễn đã viết như vậy trong tác phẩm “Tháng Tám trời mạnh thu”.
Ngày thống nhất đất nước 30-4-1975 được đúc lên từ xương máu của nhiều thế hệ cha anh nhưng đây cũng là thời khắc đặc biệt khi non sông thu về một mối, đó là ngày đoàn tụ, thống nhất của cả đất nước, dân tộc Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã nói: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Một chính đảng dù mạnh đến bao nhiêu mà xa dân, xa rời mục đích, lý tưởng của mình thì sẽ thất bại và sụp đổ, các đảng cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô là minh chứng sống động nhất về điều này.
Trong lịch sử của mình, không phải Đảng Cộng sản Việt Nam không mắc phải những sai lầm, khuyết điểm, song bằng bản lĩnh và trí tuệ của một đảng cách mạng chân chính, bằng sự dũng cảm tự vượt lên chính mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khắc phục các sai lầm, khuyết điểm. Sở dĩ đảng nhanh chóng khắc phục sai lầm, khuyết điểm của mình bởi đa số những người trong đội ngũ của đảng vẫn giữ và trung thành với mục đích, lý tưởng của Đảng, vẫn xứng đáng với các thế hệ đi trước.
Kể từ Đại hội VI của Đảng đến nay là gần 40 năm, đó cũng là gần 40 năm đổi mới đất nước. Trong khoảng thời gian ấy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đất nước và dân tộc ta đã tiến những bước tiến rất dài trên con đường phồn vinh, hạnh phúc.
Vũ Trung Kiên