Hàng quán bán đồ lưu niệm ở Buôn Đôn.
Tại sao mọi người tìm đến Buôn Đôn? Vì đó là dáng vóc của người bản địa như Êđê, Mnông và các dân tộc có nguồn gốc từ Lào như người Lào, người Thái, Jrai và người Việt gốc Lào, tạo nên một bức tranh văn hóa đa dạng và phong phú tại khu vực này.
Ở đó, có câu chuyện huyền thoại Vua Voi Y Thu Knul săn cả 400 con voi rừng, cũng như ngôi mộ của ông và nhà sàn cổ trăm tuổi, hay những câu chuyện bến sông của dòng Sêrêpôk…
Du khách chụp ảnh voi giả ở Buôn Đôn
Buôn Đôn tiếng Lào nghĩa là “làng đảo” – ngôi làng được tọa lạc trên một ốc đảo của sông Sêrêpôk, con sông chảy ngược từ Đắk Lắk đổ lên sông Mê Kông ở Campuchia. Ngay cả những con cá bơi ngược trên dòng Sêrêpôk cũng là món ăn trong bữa cơm đãi khách tại đây.
Tảng đá “Trung tâm du lịch Buôn Đôn”- một trong những điểm check-in mỗi khi du khách đến Buôn Đôn.
Tôi đã đến Buôn Đôn 30 năm trước, và mới trở lại đây vào những ngày sắp cạn của năm 2025. Dẫu biết rằng theo quy luật tự nhiên, việc trang điểm cho các khu du lịch, bán vé tham quan mọi nơi đã không xa lạ, nhưng những ký ức cũ cứ xen vào, như ta mãi nhớ người tình năm 18 tuổi.
Cầu treo ở Buôn Đôn.
Bây giờ, con đường 40 cây số từ Buôn Ma Thuột đến Buôn Đôn êm ái và rất đẹp. Xe đến thẳng một trong những bãi giữ xe của nhà dân, và tranh thủ chụp ảnh lưu niệm ở tảng đá ghi chữ “Trung tâm du lịch Buôn Đôn”. Rồi sau đó? Có thể thuê chiếc xe điện chạy quanh để thăm các làng hoặc mua vé vào cửa để đi cầu treo vào đảo Voi. Những chiếc cầu treo làm bằng tre nứa lắc lư theo bước chân khách, len giữa những tán cây cổ thụ – là cảm giác chông chênh. Ngay ở giữa cầu treo có khu vực bán thức ăn; khi qua cầu treo thì có mô hình ba con voi giả cho khách chụp ảnh.Còn dòng sông Sêrêpôk mùa mưa nước chảy xiết, màu vàng đục chỉ để ngắm nhìn. Khi qua đảo Voi, có hai con voi ở tận cuối để khách chụp hình, và chỉ có thế. Cầu treo để lòng chao nghiêng.
Nhà mồ ở Buôn Đôn giờ cũng khác xưa...
Buôn Đôn bây giờ nhiều bãi giữ xe, có hàng ăn, có hàng bán đồ lưu niệm. Có hấp dẫn chăng là chông chênh, có nao lòng chăng là nước sông cuộn trôi, để phóng tầm mắt nhìn qua nương rẫy bên kia sông.
Anh bạn đi cùng tôi – là nhiếp ảnh gia – nói:“Bây giờ kiếm một cô gái dân tộc, kiếm một nhà sàn đúng nghĩa thật khó”. Khó thật, anh phải vác máy đi thật xa, rồi tiếc rẻ là mái nhà đã lợp tôn.
Tôi lẻn vào khu nhà mồ Buôn Đôn. Khu nhà mồ này sát cạnh khu dân cư, có con đường xuống bến nước của dòng Sêrêpôk. Ba mươi năm trước, tôi từng lưu giữ những bức tượng nhà mồ, từng thích thú nhìn nghệ nhân tạc tượng, và ở đó có rất nhiều cây giá tỵ.
Nhà mồ còn đó, nhưng không là những ngôi mộ đơn giản, để sau lễ bỏ mả thì để hoang phế – để người quá cố qua một kiếp khác. Chắc vẫn có lễ bỏ mả, vì những ngôi mộ bê tông, trang hoàng đẹp đẽ, phía trước có tạc tượng những ngà voi như nhắc nhở đây là xứ voi. Là cỏ dại mọc đầy, cỏ dại gieo những nốt nhạc buồn.
Tôi nhớ lần ở lại Buôn Đôn, chứng kiến người dân cho voi ăn trong sân nhà. Nhớ nhà sàn gió lộng, ché rượu cần đem ra, nhớ món cà rừng trộn ớt sim đâm muối hay thịt dê tái trộn với thính, cùng loại lá rừng cuốn chấm muối ớt mà ăn. Rượu cần khi ấy với cần rượu vút lên, uống hết lại đổ nước vào. Là bếp lửa giữa nhà, lửa soi mặt người cười vói. Nhớ trên con đường chỉ là con đường đất nhỏ, lá me rụng vương tóc người, thỉnh thoảng có người cưỡi voi đi ngang. Đó là Buôn Đôn – xứ sở của voi. Tôi nhớ bến nước có những cô gái dân tộc hồn nhiên giặt đồ, nói cười, sẵn sàng để khách chụp hình…
Và… tôi nhớ mùa mưa Buôn Đôn thơm mùi cây cỏ…
Khuê Việt Trường