Niềm vui vỡ òa
Chúng tôi tìm đến nhà thượng tá Nguyễn Văn Cử - nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8, Tỉnh đội Quảng Ngãi, trên đường Huỳnh Công Thiệu (TP.Quảng Ngãi). Ông Cử nay đã 83 tuổi. Nghe hỏi chuyện về Ngày Giải phóng Quảng Ngãi, ông sôi nổi kể như sống lại tuổi đôi mươi. "Trước ngày giải phóng, Tiểu đoàn 81, sau khi đánh địch ở Trà Bồng, vừa rút về Tịnh Trà (Sơn Tịnh) thì cấp trên lệnh cho tiểu đoàn hành quân tiến về truông Ba Gò, thuộc các xã Bình Hiệp, Bình Long (Bình Sơn) chặn đánh địch từ TX.Quảng Ngãi tháo chạy ra Quảng Nam. Thế là, chúng tôi mang súng trên vai hành quân ngay. Đêm tiến công lửa đạn tơi bời. Sớm ra, chẳng phải đợi loan tin trên đài, trên báo, những người lính trên chiến trường năm đó, đều biết đây là trận chiến cuối cùng kết thúc 21 năm dài kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quảng Ngãi đã giải phóng, chúng tôi ôm choàng lấy nhau, niềm vui đã vỡ òa", ông Cử hồi tưởng.
Đại tá Trần Tin (thứ ba, bên phải) chụp ảnh kỷ niệm cùng đồng đội.
Sau phút hân hoan kể về ngày chiến thắng trên quê hương Quảng Ngãi, Thượng tá Nguyễn Văn Cử kể cho chúng tôi nghe câu chuyện cuộc đời mình gắn với tháng ngày trong quân ngũ, với cuộc kháng chiến hào hùng giành hòa bình, độc lập cho dân tộc. Ông tham gia du kích, sau đó là bộ đội đặc công Trung đoàn 506A, Quân khu 5. Mấy năm sau, cấp trên điều động ông ra miền Bắc học Trường Sĩ quan lục quân ở Sơn Tây. Học xong, ông được biên chế về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 88, Sư đoàn 308. Đây là đơn vị tinh nhuệ được Bộ Quốc phòng điều động tham gia chiến dịch Nam Lào, rồi đánh chiếm Thành cổ Quảng Trị. Người Tiểu đoàn trưởng can đảm, mưu trí trên chiến trường, lập được nhiều chiến công, nhiều lần được tuyên dương. Sau đó, ông được điều động trở ra miền Bắc học ở Học viện Quân sự (lúc bấy giờ mang mật danh Công trường 800) ở khu vực chợ Bưởi, quận Tây Hồ, Thủ đô Hà Nội. Tháng 7/1974, ông về lại miền Nam, làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81, Tỉnh đội Quảng Ngãi.
"Chiến trường khốc liệt, biết bao đồng đội đã nằm lại trong rừng sâu, bên chiến hào nên có niềm vui nào hơn ngày giải phóng quê hương", ông Cử xúc động nói.
Còn Đại tá Trần Tin - nguyên Phó Chỉ huy trưởng, Tỉnh đội Quảng Ngãi, sau Chiến thắng Buôn Ma Thuột, những người lính chúng tôi đều dự cảm ngày thống nhất đang đến gần. Thế nhưng sau 3 tháng ròng vượt Trường Sơn vào Nam trong sáng ngày 24/3/1975, đến binh trạm giao liên ở khu vực suối Ồ nay thuộc huyện Bắc Trà My (Quảng Nam), bật radio nghe tin Quảng Ngãi quê mình giải phóng, chúng tôi vui mừng không thể diễn tả hết bằng lời. Cả đoàn cán bộ ở binh trạm lập tức băng rừng về Quân khu 5 nhận nhiệm vụ. Cục diện chiến trường đã thay đổi, ông Tin được Quân khu điều động về Quảng Ngãi làm nhiệm vụ thời hậu chiến, góp sức để giải phóng toàn miền Nam và phòng địch phản công trở lại. “Thì cũng quê mình đó thôi, từ Dốc Sỏi đến Sa Huỳnh. Nhưng được trở về quê vừa mới giải phóng, cảm giác lạ lắm. Một bờ tre, xóm nhà, ruộng lúa thấy thân thương đến lạ”, ông Tin kể.
Đại tá Trần Tin nhớ lại ký ức Ngày Giải phóng Quảng Ngãi.
Cũng như thượng tá Nguyễn Văn Cử, ông Trần Tin gắn với đời binh nghiệp. Năm 1964, ông vào du kích rồi được chọn vào quân chủ lực của Tỉnh đội Quảng Ngãi. Sau đó, ông được điều động ra miền Bắc học ở Trường Sĩ quan lục quân. Sau đó, cấp trên điều động ông về Trung đoàn 4, Sư đoàn 320 B, thuộc Quân khu Hữu ngạn để huấn luyện quân tăng cường cho miền Nam. Ông Trần Tin đã hai lần vào Trung ương Cục miền Nam đặt ở Tây Ninh để tham gia giao quân. Mỗi chuyến đi từ miền Bắc vào Tây Ninh kéo dài 5 tháng. Băng qua Trường Sơn, đèo cao, dốc dựng đứng, bom pháo đì đùng, dẫu trải qua bao gian khổ, hy sinh vẫn không ngăn được bước chân của người lính Cụ Hồ.
Mến yêu làng quê
Quê Đại tá Trần Tin nằm ở bến đò Mốc, gần cửa biển Mỹ Á, phường Phổ Quang, TX.Đức Phổ. Như bao người lính, Quảng Ngãi được giải phóng, ông trở về làng xưa. Làng quê tan hoang sau chiến tranh. Ba của ông dựng tạm chiếc chòi tranh trên đống đổ nát. Về đến nhà, ông Trần Tin hỏi cha, mẹ đâu? Người em gái thút thít: “Ba đi đánh cá; còn mẹ thì mất trong một trận càn, pháo Mỹ bắn bên mé biển, không tìm thấy xác. Hai anh thì người vào bộ đội, người vào du kích rồi hy sinh”. Ông ngước nhìn lên bàn thờ, chỉ có bức ảnh căn cước của hai người em trai. Còn mẹ thì không có một di ảnh.
Năm 1966, trước khi lên đường ra miền Bắc, ông Tin về thăm nhà và báo tin cho ba mẹ. Mẹ không nói gì, lẳng lặng tìm mua mấy hộp sữa, bỏ vào chiếc ruột nghé để ông mang đi. Trên đường hành quân, ông nhớ mẹ thật nhiều. Và cả chặng đường đời chinh chiến, bao lần chứng kiến đồng đội hy sinh, ông đau xé lòng nhưng cố nén dòng nước mắt. Lần này, ngày quê hương được hòa bình, nghe tin mẹ và các em không còn nữa, nước mắt của người lính tuôn rơi.
Còn Thượng tá Nguyễn Văn Cử quê ở thôn Phú Long, xã Phổ Khánh (TX.Đức Phổ). Ngày ông trở về sau giải phóng thì hay tin người anh cả bị địch bắt giam ở nhà tù Phú Quốc, người anh trai thứ 4 hy sinh, cô em gái cũng mất trong một trận càn. Bữa cơm đoàn tụ sau ngày giải phóng độn khoai lang và thức ăn chỉ là mớ cá thửng nấu canh với đọt xương rồng. Cho đến bây giờ ông không sao quên được bữa cơm đầu tiên trong ngày trở về sau giải phóng.
Đại tá Huỳnh Minh Giữ - nguyên Tỉnh đội trưởng, Tỉnh đội Quảng Ngãi thì cho biết quê ông ở xã Nghĩa Hòa (Tư Nghĩa) - vùng đất cuối sông Vệ, nơi phố xưa Thu Xà yên bình. Trong chiến tranh cũng đôi lần được cơ sở giúp đỡ, ông có về gặp mẹ lúc bờ sông Trà Khúc vào những đêm tối trời, được gặp mẹ chỉ trong khoảnh khắc. Sau ngày Quảng Ngãi được giải phóng, ông tất tả về quê. Nghe hàng xóm bảo, làng quê sau những lần bị bom pháo tàn phá, mẹ của ông lên phía trong cống Kiểu, TX.Quảng Ngãi mở quán bán hàng tạp hóa kiếm sống qua ngày. Thế là ông tất tả ngược đường lên thị xã. Còn mẹ của ông lúc đó cũng tất tả trở lại quê. Mẹ đi xuống, ông lại đi lên mà không gặp nhau. Thời đó, nào có điện thoại di động nên đến cống Kiểu, ông Huỳnh Minh Giữ cứ đi tới đi lui tìm nhà. Có một cô gái thấy anh lính giải phóng trong trang phục màu xanh, mũ tai bèo, chân dép lốp, bên hông đeo súng ngắn K54 cứ dạo qua, dạo lại nên đánh bạo hỏi: “Anh tìm ai? Tui thấy anh quen lắm”. Thì ra đó là bạn thân của em gái ông, cô gái đã đưa ông về nhà. Mẹ gặp con, em gặp anh, hết nói lại cười và nước mắt rưng rưng. "Ngày ra đi, con trai của mẹ chỉ mới tuổi 15, bây giờ là chiến sĩ giải phóng quân”, mẹ của ông xúc động nói.
Vậy đó, để quê hương được giải phóng, biết bao gia đình ly tán, biết bao người chịu cảnh mất mát, hy sinh. Quảng Ngãi được giải phóng, có niềm vui nào hơn thế! Đã 50 năm trôi qua, những người lính tham gia giải phóng quê hương giờ đã trở thành cụ ông, cụ bà. Nhiều người đã về cõi vĩnh hằng. Trên những vùng chiến trường xưa bây giờ đã khác. Những công trình, nhà máy, những khu dân cư bình yên trong nắng. Tỉnh Quảng Ngãi đang sánh vai cùng các tỉnh miền Trung và cả nước trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dẫu vậy, ký ức tháng Ba, ký ức về Ngày Giải phóng Quảng Ngãi vẫn còn mãi với thời gian!
Bài, ảnh: CẨM THƯ