Trồng rừng đã tạo ưu thế để bà con nông dân tỉnh Lào Cai nâng cao thu nhập, phát triển kinh tế. Ảnh: Thanh Tùng
Hiệu quả trồng rừng sau đầu tư
Lào Cai sở hữu diện tích đất lâm nghiệp rộng lớn, đặc biệt tại các xã vùng cao và biên giới như Bảo Yên, Nghĩa Đô, Thượng Hà, Xuân Hòa, Phúc Khánh, Bảo Hà, Trịnh Tường, Mường Khương, Bát Xát hay Y Tý. Người dân nơi đây chủ yếu sống dựa vào khai thác gỗ và sản xuất lâm nghiệp truyền thống, thu nhập thấp, trong khi hiệu quả trồng rừng chưa bền vững do cơ chế hỗ trợ còn bất cập.
Trước đây, theo Quyết định 147/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015, người dân được cấp cây giống miễn phí để trồng rừng sản xuất. Tuy nhiên, việc cấp phát giống nhiều thời điểm không phù hợp với nhu cầu thực tế: chủng loại không đồng nhất, thời gian không thuận lợi, lực lượng hỗ trợ mỏng, dẫn đến tỷ lệ cây sống thấp. Cây giống được đưa về đến tay người dân đôi khi không còn đạt chất lượng, khiến nhiều hộ không mặn mà với trồng rừng. Năm 2012, Lào Cai chủ động đổi mới tư duy quản lý, triển khai mô hình trồng rừng sau đầu tư, phương thức hỗ trợ mang tính đột phá.
Theo đó, hộ dân, tổ chức hoặc cộng đồng có đất quy hoạch rừng sản xuất sẽ tự mua cây giống, tự tổ chức trồng, chăm sóc và quản lý. Nhà nước chỉ hỗ trợ tài chính sau khi rừng trồng đạt tiêu chuẩn và được nghiệm thu tại thực địa bởi Ban Quản lý rừng 661, lực lượng kiểm lâm, phòng nông nghiệp và chính quyền địa phương. Cách làm này đã “trao quyền” thực sự cho người trồng rừng. Họ chủ động lựa chọn giống phù hợp, căn thời vụ hợp lý và chăm sóc theo cách hiệu quả nhất, bởi thành quả cuối cùng gắn trực tiếp với túi tiền và công sức của họ. Từ bị động, người dân trở thành chủ thể; từ lệ thuộc vào hỗ trợ, họ chuyển sang tự quyết định và tự chịu trách nhiệm.
Thực tế cho thấy, từ khi đổi mới cơ chế, chất lượng rừng trồng ở Lào Cai nâng lên rõ rệt, cây sinh trưởng đồng đều, tỷ lệ che phủ tăng, người dân mạnh dạn đầu tư vốn vào kinh tế rừng vốn trước đây được xem là lĩnh vực rủi ro cao.
Khai thác “vàng trắng” của núi rừng
Trong câu chuyện phát triển kinh tế rừng của Lào Cai, cây bồ đề (hay còn gọi là cánh kiến trắng, an tức hương) đang trở thành giống cây đặc sản mang lại giá trị kinh tế vượt trội. Trước kia, người dân chỉ biết đến bồ đề như cây lấy gỗ, phần nhựa quý từ thân cây thường bị bỏ quên hoặc không biết cách khai thác. Nhựa bồ đề là một hợp chất tự nhiên tinh khiết từ lâu được dùng trong y học dân gian, nhưng trong ngành công nghiệp nước hoa hiện đại, đây là chất định hương quý hiếm, giúp giữ mùi lâu, tạo độ sâu và sự bền vững cho các dòng nước hoa cao cấp. Ông Đoàn Văn Biên, nông dân xã Văn Bàn, chia sẻ hành trình thay đổi sinh kế của mình: “Ngày trước, do không biết giá trị của nhựa bồ đề, tôi toàn chặt cây bán gỗ, chỉ đủ sống qua ngày. 3 năm gần đây, biết được giá trị "vàng trắng" trong thân cây, tôi chuyển sang lấy nhựa. Không phá rừng mà thu nhập lại cao hơn gấp nhiều lần”.
Từ những giọt nhựa óng ánh chảy ra từ thân cây rừng, nguồn nguyên liệu quý giá này nay đã được doanh nghiệp thu mua để xuất khẩu sang Pháp, trở thành thành phần trong các dòng nước hoa nổi tiếng thế giới. Một loại cây rừng bản địa tưởng chừng chỉ có giá trị nhỏ bé, nay đã “bước ra thế giới”, mang theo cả giá trị kinh tế lẫn niềm tự hào của người dân miền núi. Lào Cai hiện có gần 4.000ha rừng trồng cây bồ đề, thì riêng các xã Văn Bàn, Võ Lao, Khánh Yên, Dương Quỳ, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã có hơn 370ha.
Hiệu quả kinh tế của cây bồ đề đã thúc đẩy nhiều hộ trên địa bàn các xã vùng cao Văn Bàn, Bảo Yên, Nghĩa Đô... chuyển đổi diện tích rừng tạp sang trồng bồ đề, vừa tạo sinh kế ổn định, vừa góp phần giữ rừng tự nhiên bởi khai thác nhựa không làm chết cây. Lợi ích kép (vừa bảo vệ rừng, vừa cho thu nhập cao) khiến cây bồ đề trở thành hướng đi phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn mà Lào Cai đang hướng tới.
Rừng gỗ lớn ở Lào Cai. Ảnh: Thanh Tùng
Khát vọng làm giàu bền vững
Nếu cây bồ đề mang lại giá trị tức thời, thì trồng rừng gỗ lớn lại là bài toán “nuôi vốn dài hạn”, đòi hỏi kiên trì nhưng lợi nhuận vượt trội. Nhiều hộ dân ở Lào Cai đang mạnh dạn chuyển từ rừng nguyên liệu ngắn ngày sang rừng gỗ lớn để tối ưu hóa giá trị kinh tế.
Tại các xã Yên Bình, Bảo Yên, Nghĩa Đô, Thượng Hà..., từng triền đồi vốn là lau lách, cỏ tranh nay phủ xanh màu xanh bạt ngàn của keo, quế, bồ đề và nhiều loài cây lâm nghiệp có giá trị. Đời sống người dân thay đổi từ chính sự thay đổi trong tư duy sản xuất. Nhiều hộ dân cho biết, khai thác keo 6 năm tuổi chỉ được 80-100 triệu đồng/ha, nhưng nếu để thêm 2-4 năm, giá trị có thể lên đến 150-200 triệu đồng/ha, thậm chí cao hơn nữa. Rừng càng lâu năm, thân càng lớn, thì giá trị càng cao. Vì vậy, nhiều hộ đẫ dành phần lớn diện tích rừng của gia đình để chuyển sang trồng rừng gỗ lớn. Đó không chỉ là quyết định đầu tư kinh tế, mà còn thể hiện sự thay đổi tư duy, chọn nuôi vốn, nuôi rừng dài hạn thay vì “bán lúa non”.
Tại thôn Hương Giang, ông Cù Minh Tài là một trong những người tiên phong “nuôi rừng” suốt 14 năm. Sau nhiều mùa rừng lỗ, lãi thất thường với chu kỳ 5-6 năm, khi được cán bộ kiểm lâm tuyên truyền về giá trị lâu dài của rừng gỗ lớn, ông đã quyết định dồn vốn, dồn công sức để nuôi rừng lớn lên theo từng vòng tuổi. Giờ đây, những cánh rừng năm xưa chỉ là đồi cỏ tranh đã trở thành vùng rừng kinh tế bền vững, là tài sản giá trị để lại cho con cháu. Hộ có vài ha rừng gỗ lớn có thể thu hàng trăm triệu đồng mỗi chu kỳ, ổn định đời sống và tự tin phát triển kinh tế.
Mô hình trồng rừng sau đầu tư, mô hình khai thác cây đặc sản như bồ đề hay phát triển rừng gỗ lớn không chỉ góp phần tăng nhanh tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh, mà còn mở ra cơ hội làm giàu cho hàng nghìn hộ dân. Từ đó, vùng biên cương Lào Cai thêm xanh, thêm giàu, thêm vững chắc.
Thanh Tùng