Quang cảnh phiên thảo luận tại Tổ 8
Thảo luận về dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, ĐBQH tỉnh Bắc Ninh cho rằng đây là nội dung rất quan trọng, bởi việc dự trữ hàng dự trữ quốc gia nhằm bảo đảm ứng phó với các tình huống cấp bách và những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Ngành Y tế là một trong những đơn vị trực tiếp triển khai thực hiện nhiệm vụ về hàng dự trữ quốc gia.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan (Bắc Ninh) phát biểu
Liên quan đến việc luân phiên đổi hàng dự trữ quốc gia trong kỳ dự trữ, Bộ trưởng Bộ Y tế đề nghị làm rõ khái niệm "kỳ dự trữ" hoặc giao Chính phủ quy định, bởi dự thảo hiện chưa nêu rõ.
Theo Bộ trưởng, nhiều loại hàng hóa có kỳ dự trữ khác nhau, ví dụ như gạo có kỳ dự trữ ngắn hơn, còn máy móc, trang thiết bị thì tùy thuộc điều kiện, chủng loại, có thể là 5 năm hoặc 10 năm. Do đó, cần có giải thích hoặc quy định cụ thể để bảo đảm quá trình triển khai không bị "vướng".
Ngoài ra, tại Điều 23 quy định Bộ trưởng ban hành quy định về bảo quản hàng dự trữ quốc gia và định mức kinh tế – kỹ thuật nhập, xuất, bảo quản hàng dự trữ quốc gia theo lĩnh vực được phân công quản lý, Bộ trưởng Đào Hồng Lan đề nghị làm rõ định mức kinh tế – kỹ thuật nhập, xuất, bảo quản hàng dự trữ quốc gia là gì.
Một vấn đề nữa được Bộ trưởng Đào Hồng Lan nêu là nhiều trường hợp không thể ban hành định mức kinh tế – kỹ thuật mà chỉ có thể ban hành định mức về số lượng. Ví dụ như đối với thiết bị y tế đã có tiêu chuẩn của nhà sản xuất và các quy định liên quan về tiêu chí, quy chuẩn
Ở góc độ quản trị, ĐBQH Lê Mạnh Hùng ( Cà Mau) cho rằng, dự trữ chiến lược phải được xem như giải pháp quản trị rủi ro chiến lược cho chiến lược phát triển quốc gia, do đó cần tích hợp với việc đánh giá các kịch bản và “khẩu vị rủi ro” quốc gia. Phạm vi dự trữ không chỉ bó hẹp trong lãnh thổ mà phải tính tới yếu tố khu vực và quốc tế, trên cơ sở lợi thế so sánh của từng nước.
ĐBQH Lê Mạnh Hùng (Cà Mau) phát biểu
Đại biểu cũng nhấn mạnh yêu cầu kết nối giữa dự trữ quốc gia, dự trữ chiến lược và dự trữ thương mại của doanh nghiệp, phân định phần “lõi cứng” Nhà nước phải giữ và phần có thể chia sẻ với thị trường. Luật vì thế cần bổ sung rõ hoạt động đầu tư, vận hành trong phạm vi điều chỉnh; mở rộng khái niệm “kho dự trữ” theo hướng không chỉ là kho vật chất truyền thống mà còn bao gồm các hình thức tích năng, thế năng, pin, dung dịch đặc biệt, gắn với nghiên cứu khoa học, dữ liệu lớn và năng lực làm chủ công nghệ.
Theo đại biểu, với điều kiện kinh tế và mức độ làm chủ ở mặt công nghệ hiện nay của Việt Nam, cũng cần phải tính toán và quy định cụ thể, rõ ràng mức độ rủi ro là bao nhiêu chứ không nói chung chung là khuyến khích hay tạo điều kiện.
“Khuyến khích hay tạo điều kiện rất khó để đưa vào hạch toán. Khuyến khích mà dẫn đến thu không đủ bù chi hoặc thua lỗ thì doanh nghiệp họ cũng không làm, chính sách phải đảm bảo hiệu quả cho các chủ thể liên quan”, ĐBQH Lê Mạnh Hùng nêu quan điểm.
ĐBQH Nguyễn Như So (Bắc Ninh) đặc biệt phân tích chính sách xã hội hóa hoạt động dự trữ quốc gia: dự thảo đã đưa ra nhiều quy định khuyến khích doanh nghiệp tham gia, nhưng mới dừng ở mức “tạo điều kiện”, chưa có ưu đãi đủ mạnh. Do đó, đại biểu đề nghị bổ sung các chính sách cụ thể như ưu đãi thuế, tín dụng, bảo lãnh vốn vay, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư kho dự trữ hiện đại để thu hút khu vực tư nhân tham gia sâu, coi đây là giải pháp chiến lược huy động nguồn lực xã hội đồng hành cùng Nhà nước trong bảo đảm dự trữ quốc gia.
ĐBQH Nguyễn Như So ( Bắc Ninh) phát biểu
Liên quan đến nguồn hình thành dự trữ, đại biểu Nguyễn Như So cho rằng quy định “tự nguyện đóng góp” của tổ chức, cá nhân chưa sát thực tiễn, nhất là với các mặt hàng mang tính chiến lược như xăng dầu, khí, kim loại, vật tư quốc phòng, sản phẩm công nghệ cao. Thay vào đó, cần chuyển sang cơ chế tham gia thông qua chính sách ưu đãi và hợp đồng cụ thể, vừa minh bạch, vừa khả thi.
Về khoản 4 Điều 12, đại biểu Nguyễn Như So đánh giá tích cực việc mở rộng phạm vi chuyển nguồn dự toán chi dự trữ quốc gia sang năm sau, song lưu ý nguy cơ ảnh hưởng kỷ luật tài chính. Đại biểu đề nghị luật phải quy định rõ trách nhiệm giải trình của bộ, ngành, thời hạn chuyển nguồn và cơ chế hủy dự toán khi hết hạn, tránh kéo dài dự toán nhiều năm, gây lãng phí ngân sách. Đối với khoản 2 Điều 20, đại biểu kiến nghị bổ sung quy định xử lý hàng dự trữ có giá trị lớn, cấu hình kỹ thuật cao, đặc thù quốc phòng – an ninh khi hết hạn lưu kho, kèm theo yêu cầu đánh giá kỹ thuật, định giá, truy xuất trách nhiệm và chế tài nếu chậm xử lý, nhằm nâng hiệu quả vòng quay dự trữ quốc gia.
Cùng bàn về Luật Dự trữ quốc gia, đại biểu Leo Thị Lịch ( Bắc Ninh) nhìn nhận dự thảo lần này đã có nhiều điểm mới, rút từ 66 điều xuống còn 35 điều nhưng vẫn bao quát nội dung, thể hiện sự mạnh dạn trong đơn giản hóa pháp luật, tăng phân cấp, phân quyền và chú trọng chuyển đổi số, nhất là bổ sung khái niệm “dữ liệu chiến lược”. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng vẫn còn khoảng trống cần hoàn thiện. Cụ thể, việc giao Chính phủ quyết định danh mục hàng hóa dự trữ là phù hợp, nhưng dự thảo chưa làm rõ cơ chế điều chỉnh danh mục theo chu kỳ ngắn hơn (như theo quý) để kịp thời ứng phó diễn biến rủi ro mới.
ĐBQH Leo Thị Lịch ( Bắc Ninh) phát biểu
Đại biểu cũng lưu ý, dự thảo bỏ quy định “cất giữ riêng” và cho phép lưu trữ hàng dự trữ chung trong kho hỗn hợp sẽ giúp giảm chi phí, đơn giản thủ tục, song đòi hỏi phải quy định chặt chẽ về quy chuẩn kỹ thuật, bảo đảm chất lượng hàng hóa trong suốt quá trình bảo quản. Đồng thời, cần có quy định cụ thể hơn về cơ chế luân chuyển, thay thế hàng dự trữ, tỷ lệ luân chuyển bắt buộc cho từng mặt hàng để tránh tồn kho, “chết hàng” như trường hợp gạo quá hạn, gây lãng phí ngân sách.
Bách Hợp - An Nhiên